Một sự nghiệp viết chẵn 50 năm không ngừng nghỉ, đã để lại những tác phẩm vang động núi sông và làm vẻ vang cho dân tộc, như: “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), “Nhật ký trong tù” (1943), “Tuyên ngôn Độc lập” (1945), “Di chúc” (1969). Nếu 30 năm xa xứ của Nguyễn Ái Quốc-từ năm 1911 đến 1941-là một hành trình không có bất cứ anh hùng, chí sĩ nào trong lịch sử và trong nửa đầu thế kỷ 20 so sánh được, thì 50 năm viết cũng là một kỷ lục khó có một danh nhân văn hóa nào của dân tộc và nhân loại so sánh được.

leftcenterrightdel
Bác Hồ với thiếu nhi. Ảnh tư liệu

50 năm viết, trong đó có một sự nghiệp văn chương. Có nghĩa là sự nghiệp văn chương chỉ là một bộ phận trong sự nghiệp viết của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Soi kỹ vào sự nghiệp đó thấy có hai giai đoạn đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung cho sự nghiệp văn chương, vốn được Nguyễn xem như là “vũ khí của tiếng nói”. Giai đoạn thứ nhất, đó là những năm 1919-1923 ở Paris, sau “Yêu sách của nhân dân An Nam”, Nguyễn đã xuất hiện trong tư cách người chủ trì tờ báo Người cùng khổ (Le Paria). Là người đã viết vở kịch “Con rồng tre” để công kích tên vua bù nhìn Khải Định. Đã viết “Bản án chế độ thực dân Pháp”… nhằm cảnh tỉnh thế giới phương Tây và thức tỉnh thế giới phương Đông, trong đó có hai đối tượng chính được nói đến là những tên chủ thực dân và những người bản xứ, nô lệ trên khắp thế giới. Với những tên chủ thực dân, tác phẩm có giá trị như một bản án; với người bản xứ, nô lệ da màu, tác phẩm khẳng định tư cách người kết án. Cùng với “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn còn viết nhiều truyện và ký với phong cách hiện đại, sắc sảo, với chủ đề chống chủ nghĩa thực dân và vạch rõ sự hủ lậu của phong kiến Nam triều, như: “Vi hành”, “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”, “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu”, “Con người biết mùi hun khói”… Đây là những truyện, ký ngắn Nguyễn đã viết nhờ vào ý thức học tập cách viết của các đại văn hào thế giới như L.Tolstoy, A.France…

Giai đoạn thứ hai trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Ái Quốc là thời kỳ 1941-1945 và sau năm 1945, sau khi Nguyễn Ái Quốc về nước. Đây là lúc thời cơ cách mạng đến với dân tộc Việt Nam; và Nguyễn Ái Quốc đã về đúng lúc để lĩnh sứ mệnh là vị tổng chỉ huy tối cao của dân tộc, trong trận đánh sinh tử cuối cùng nhằm lật đổ hai tầng áp bức Pháp-Nhật và xóa bỏ nền chuyên chế phong kiến kéo dài hàng nghìn năm.

Về với Tổ quốc, sau 30 năm xa xứ, cảm xúc về quê hương đã gợi nguồn cảm hứng cho Ông Ké cách mạng, rồi từ đây sẽ mang tên Hồ Chí Minh, làm hai bài thơ về Pác Bó; và ngay sau đó là hơn 30 bài thơ cổ động viết cho tờ báo Việt Nam độc lập nhằm mục đích tuyên truyền, tổ chức cách mạng trong quần chúng nhân dân vùng căn cứ địa, như các bài: “Hòn đá”, “Công nhân”, “Dân cày”, “Phụ nữ”, “Ca sợi chỉ”, “Nhóm lửa”…

Năm 1942 là năm Hồ Chí Minh viết “Lịch sử nước ta”-208 câu, tóm tắt một cách rất cô đúc lịch sử dân tộc kể từ ngày tổ tiên dựng nước-“Hồng Bàng là tổ nước ta” đến “Trước ngày khởi nghĩa Việt Minh bắt đầu”, với mục đích: Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.

“Lịch sử nước ta”, một diễn ca rất dễ thuộc, với dòng cuối cùng là một tiên tri, nằm trong phần phụ lục “Những năm quan trọng”: “1945-Việt Nam độc lập”.

Năm 1943, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc và bị bắt ở Quảng Tây; bị giam cầm và giải tới giải lui trên khắp 13 huyện trong 14 tháng trời. Đó là hoàn cảnh đặc biệt để Hồ Chí Minh viết nên tập thơ chữ Hán “Ngục trung nhật ký” (Nhật ký trong tù) gồm 135 bài. Một hoàn cảnh ngẫu nhiên mà có thơ! Và tập thơ ra đời trong hoàn cảnh ngẫu nhiên ấy đã đem lại một phẩm chất đặc biệt, làm nên tên tuổi một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ đích thực, một giá trị nhân văn sâu sắc, một tầm vóc văn hóa cỡ nhân loại, một Con Người viết hoa… Với “Ngục trung nhật ký”-viết năm 1943-và bản dịch “Nhật ký trong tù”-in năm 1960, văn học Việt Nam thế kỷ 20 có một tuyệt phẩm làm nên sự gắn nối: Hồ Chí Minh-Anh hùng giải phóng dân tộc với Hồ Chí Minh-Nhà văn hóa lớn.

Năm 1945, Hồ Chí Minh viết “Tuyên ngôn Độc lập”, với tâm thế sảng khoái nhất trong đời viết của mình. Có thể xem “Tuyên ngôn Độc lập” như một điểm ngưng tụ và tỏa sáng trong sự nghiệp viết của Hồ Chí Minh. Đây là đỉnh cao trong giai đoạn thứ hai của sự nghiệp văn chương Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp viết chẵn 50 năm của Người.

Trong 24 năm cuối của đời mình, với Hồ Chí Minh, đó là thư và thơ gửi các giới đồng bào; là thơ xuân chúc Tết; là những lời kêu gọi trong hai cuộc kháng chiến; là thơ ngắn viết về mình và cho mình; và cuối cùng là “Di chúc” gửi toàn dân, toàn Đảng với điều mong muốn cuối cùng là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Tháng 12-2018

Giáo sư PHONG LÊ