Ném găng lên võ đài

Người khởi phát cuộc chiến không phải ai khác chính là Tổng thống Mỹ Donald Trump. Theo thông báo của ông chủ Nhà Trắng, từ rạng sáng 10-5, Mỹ chính thức nâng mức thuế đánh vào lượng hàng hóa trị giá 200 tỷ USD xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường Mỹ từ 10% lên 25%. Tiếp đó, ông Donald Trump khẳng định xúc tiến những bước đi pháp lý đầu tiên để tiếp tục đánh thuế 25% với hơn 300 tỷ USD hàng hóa còn lại, có nghĩa là toàn bộ tổng số hàng hóa của Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường Mỹ.

Trước đó đã xuất hiện những cơn “áp thấp”, khi mà cả hai liên tục tung ra những lời đe dọa về chiến tranh thương mại, buộc chuyên viên của cả hai phía phải vật lộn qua nhiều vòng đàm phán căng thẳng để có thể đạt tới được một dự thảo thỏa thuận cuối cùng. Chỉ bằng vài dòng tweet, ông Donald Trump khiến tất cả ngỡ ngàng khi ném găng lên võ đài khai mào cuộc chiến.

Dĩ nhiên, Trung Quốc đời nào ngồi yên chịu đòn. Bắc Kinh lập tức tuyên bố đánh mức thuế tương đương 25% đối với 60 tỷ USD giá trị hàng hóa của Mỹ nhập khẩu vào Trung Quốc. Do Trung Quốc nhập khẩu số lượng hàng hóa từ Mỹ ít hơn rất nhiều so với chiều ngược lại nên mức thuế trả đũa ban đầu của Trung Quốc chỉ có vậy!

Hai bên đã liên tiếp có những cuộc đàm phán căng thẳng, kể cả những quãng hưu chiến ngắn khi tạm lùi thời gian thực hiện áp thuế lên hàng hóa của nhau với hy vọng tìm được lối thoát ra khỏi khủng hoảng. Tuy nhiên, đến tháng 9, “bão thương chiến” tiếp tục tăng cấp. Từ ngày 1-9, Mỹ bắt đầu áp thuế 15% đối với khoảng 112 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. Sau đó, bắt đầu từ ngày 1-10, Mỹ tiếp tục áp thêm 5% thuế lên 250 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc, vốn đang bị đánh thuế ở mức 25%, có nghĩa là phải chịu thuế ở mức 30%.

Cũng từ ngày 1-9, Trung Quốc thực hiện phản đòn, bắt đầu áp thuế bổ sung để đáp trả Mỹ. Mức thuế bổ sung 5% và 10% được triển khai với 1.717 trong tổng số 5.078 sản phẩm có nguồn gốc từ Mỹ.

Thời gian càng trôi về cuối năm, hy vọng về một thỏa thuận toàn diện cuối cùng ngày càng vô tăm tích. Ngay cả khi hai bên đạt được một thỏa thuận thương mại tạm thời vào trung tuần tháng 10, triển vọng chấm dứt thương chiến Mỹ-Trung càng lùi xa khi vấn đề Hồng Công bất ngờ nổi lên.

Những đòn đánh tinh vi

leftcenterrightdel
Thương chiến Mỹ-Trung

Trong cơn “bão thương chiến” này, hai bên tung ra những đòn đánh vừa khốc hại, vừa tinh vi nhằm gây tổn thương tối đa cho đối phương với hy vọng, bên nào không chịu nổi tổn thất sẽ phải xuống thang trước.

Đó là lý do khiến Mỹ lựa chọn phương cách áp thuế trên diện rộng đối với các mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc. Theo số liệu được công bố công khai, năm 2018, Mỹ nhập khẩu khoảng 540 tỷ USD hàng hóa của Trung Quốc và xuất khẩu 120 tỷ USD hàng hóa sang thị trường này. Những con số này chẳng thấm gì so với quy mô của nền kinh tế Mỹ đạt tới 21.000 tỷ USD trong quý I-2019.

Trong khi đó, tỷ lệ này của nền kinh tế Trung Quốc lớn hơn nhiều. Tổng số 540 tỷ USD hàng hóa xuất sang Mỹ năm 2018 chiếm tới 4% nền kinh tế trị giá 13.400 tỷ USD của Trung Quốc.

Như vậy, khi những đòn thuế quan được cả hai phía bung ra, kinh tế Trung Quốc sẽ bị tổn thương lớn hơn chừng 7 lần so với Mỹ. Ước tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy, nếu các mức thuế trừng phạt của Mỹ phát huy tác dụng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc trong năm 2019 giảm khoảng 1,6%, trong khi đối với kinh tế Mỹ, mức suy giảm ít hơn nhiều.

Nhưng sự đời đâu có đơn giản qua những con số như vậy.

Trong khi Trung Quốc kêu gọi Mỹ không được “chính trị hóa” thương chiến (bằng việc sử dụng vấn đề Hồng Công nhằm gây sức ép trên bàn đàm phán) thì thực chất, những lựa chọn trả đũa của Trung Quốc lại mang tính chính trị tinh vi hơn bao giờ hết.

Khi ông Donald Trump còn chưa tuyên bố áp thuế 10% lên 300 tỷ USD hàng hóa của Trung Quốc, đòn trả đũa đến từ Bắc Kinh khá hiểm: Bước đầu ngừng mua nông sản, thực phẩm Mỹ. Các hợp đồng mua thịt heo lớn bị hủy. Lượng đậu tương nhập khẩu từ Mỹ giảm thê thảm. Chỉ những thay đổi bước đầu như vậy đã khiến người nông dân Mỹ lao đao.

Trung Quốc hy vọng nông dân Mỹ ở các bang “chiến địa”, nơi hai đảng Dân chủ và Cộng hòa tranh giành lá phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, sẽ quyết định ai là người ở trong Nhà Trắng cho một nhiệm kỳ 4 năm tiếp theo và bằng cách đó, sẽ gây sức ép đủ lớn để buộc Mỹ phải ngừng thương chiến.

Lường trước được mối nguy này, ngay từ hồi tháng 5, ông Donald Trump đã quyết định tung ra gói viện trợ trị giá 16 tỷ USD để hỗ trợ những nông dân gặp khó khăn do thương chiến Mỹ-Trung, đồng thời không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng chính Trung Quốc, chứ không phải các công ty hay người tiêu dùng Mỹ, phải trả tiền cho những hậu quả mà cuộc thương chiến đang diễn ra. Theo ông Donald Trump phân tích thì do các biện pháp thuế quan của Mỹ, Trung Quốc đã phải liên tục bơm tiền vào nền kinh tế để cân đối với khoản chênh lệch tăng lên do Mỹ áp thuế.

“Lưỡng bại câu thương”

Chẳng biết phân tích của ông Donald Trump đúng đến đâu nhưng chắc chắn rằng thương chiến Mỹ-Trung trong năm 2019 đã dẫn tới những hệ lụy nặng nề cho cả hai bên.

Mục tiêu chính mà ông Donald Trump tuyên bố khi khơi mào thương chiến là giảm thâm hụt thương mại với Trung Quốc, thế nhưng một nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho thấy thuế và phí trong hoạt động xuất khẩu chỉ chiếm một phần khá nhỏ trong cán cân thương mại. Sự chênh lệch cán cân thương mại song phương có nguyên nhân từ nhiều yếu tố tổng hợp như kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa, chu kỳ tín dụng cũng như chính sách tỷ giá và trợ cấp thương mại. Nói cách khác, mục tiêu đó khó có thể thực hiện được, mà ông Donald Trump chắc chắn muốn hướng đến những mục tiêu khác, lớn hơn.

Khi thương chiến vừa nổ ra, phát biểu trên Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình cho rằng: “Nền kinh tế Trung Quốc là biển cả, không phải cái ao. Một cơn bão có thể hủy hoại một cái ao nhỏ, nhưng không thể làm tổn thương biển cả. Sau hàng loạt cơn bão, biển vẫn nằm đó!”.

Tuy nhiên, chắc chắn nền kinh tế Trung Quốc cũng phải chịu thiệt hại trong cuộc thương chiến với Mỹ. Mức thuế quan cao không chỉ làm giảm nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc vào Mỹ mà còn khiến nhiều công ty nước ngoài chuyển dây chuyền cung ứng ra khỏi Trung Quốc (mặc dù không nhất thiết là chuyển về Mỹ để tăng việc làm cho dân Mỹ như ông Donald Trump mong muốn).

Hay đơn giản như chuyện thuế đánh vào thịt lợn. Khi Mỹ áp thuế đối với một lượng lớn hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, Bắc Kinh trả đũa tinh tế bằng cách áp mức thuế cao hơn đối với các mặt hàng nông sản của Mỹ, trong đó, mức đánh vào thịt lợn tăng từ 12% lên 62% với mục tiêu làm người chăn nuôi Mỹ thiệt hại. 

Hóa ra đây lại là một đòn lấy đá tự ghè chân mình. Nạn dịch tả lợn châu Phi khiến Trung Quốc có khả năng mất tới 50% số lợn vào cuối năm 2019, giá thịt lợn tăng 46% và có thể vượt 80% vào dịp cuối năm. Do vai trò rất quan trọng của thịt lợn trong cơ cấu bữa ăn của người Trung Quốc, sự tăng giá đột biến này có thể dẫn tới những hệ lụy khó đoán định về mặt xã hội, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Giá thịt lợn cao đẩy giá các loại thịt khác cũng tăng theo, làm tăng sức ép lạm phát đối với toàn bộ nền kinh tế.

Giá thực phẩm tăng cùng với những biến động ở Trung Đông khiến giá dầu tăng cũng có khả năng khiến cho nền kinh tế lớn thứ hai thế giới phải chịu những tổn thương vô cùng nghiêm trọng.

Đúng là một cuộc chiến “lưỡng bại câu thương”, hai bên cùng thiệt hại.

Một trật tự thế giới mới?

Một trong những lý do chính khiến cho Mỹ bất ngờ ném găng lên võ đài được ông Donald Trump chính thức công bố là do lượng xuất siêu quá lớn trong cán cân thương mại của Trung Quốc đối với Mỹ. Sau khi đắc cử, vị chủ nhân mới của Nhà Trắng nhận thấy chỉ trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã tăng cường xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ gấp nhiều lần so với lượng hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ.

Ngôn từ kinh tế đơn giản gọi đó là hiện tượng Mỹ nhập siêu từ Trung Quốc. Còn ông Donald Trump, vốn là một tỷ phú trở thành tổng thống, coi đó là mối đe dọa an ninh đối với nước Mỹ!

Bởi sau khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Trung Quốc trở thành một mắt xích trong chuỗi sản xuất của nền kinh tế toàn cầu do Mỹ chi phối. Vấn đề nằm ở chỗ, tốc độ phát triển quá nhanh so với dự kiến của Trung Quốc khiến các nhà hoạch định chính sách Mỹ lo sợ. Từng là một đồng minh trong cục diện chiến lược tam giác nhằm kiềm chế Liên Xô thời “Chiến tranh lạnh”, Trung Quốc dần biến thành mối nguy cơ tiềm tàng sau “Chiến tranh lạnh”.

Bước sang những thập niên đầu thế kỷ 21, việc vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới khiến vị thế của Trung Quốc so với Mỹ thay đổi rõ rệt. Không chỉ áp đảo thị trường Mỹ bằng các mặt hàng giá rẻ, các tập đoàn công nghệ của Trung Quốc như Huawei bắt đầu vươn lên chiếm lĩnh thị trường quốc tế. Trung Quốc trở thành một đối thủ cạnh tranh hiện hữu, đe dọa trực diện vị thế siêu cường số 1 thế giới của Mỹ. Quá nhanh, quá nguy hiểm!

Khi ông Donald Trump vào Nhà Trắng, việc kiềm chế sự trỗi dậy không còn mang tính hòa bình của Trung Quốc trở thành một nhiệm vụ mang tầm quan trọng chiến lược. Cạnh tranh Mỹ-Trung trên khía cạnh kinh tế thực chất là cạnh tranh địa-chính trị, giữa một cường quốc đang lên với một cường quốc từng ở vị thế siêu cường duy nhất nhưng bắt đầu suy yếu.

Trong cuộc cạnh tranh địa-chính trị ở tầm chiến lược này, những giải pháp mang tính cục bộ chỉ đem lại kết quả nhất thời, có tác dụng hóa giải mâu thuẫn giữa hai cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới trong một thời gian nhất định nào đó. “Bão thương chiến” Mỹ-Trung 2019 có thể tạm ngưng dựa trên những thỏa thuận tạm thời, nhưng “hoàn lưu” của nó còn tác động mạnh mẽ trong năm 2020 và không loại trừ khả năng sẽ tạo ra một trật tự thế giới mới trong kinh tế và thương mại toàn cầu.

VĂN YÊN