Những ngày mùa đông năm 2019, có một người Mỹ sáng sáng ngồi uống cà phê trên hè phố Nguyễn Du và ghi chép những điều gì đó vào cuốn sổ nhỏ. Đó là Giáo sư (GS), nhà thơ Bruce Weigl đang sống và viết trong một căn phòng nhỏ ông thuê ở phố Yết Kiêu (Hà Nội). Chuyến đi tới Việt Nam lần này, ông bắt tay viết cuốn tiểu thuyết liên quan đến làng Việt Nam. Bruce Weigl là cựu binh từng tham chiến ở Tây Ninh. Rồi ông tham gia phong trào phản chiến và kêu gọi Chính phủ Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trong những năm tháng băng giá của quan hệ Việt Nam và Mỹ, ông là một nhà thơ đã làm tất cả để kêu gọi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, hằng năm, các nhà văn Việt Nam đến Boston (Mỹ) dự hội thảo văn học mùa hè. Một lần, đoàn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng bị một nhóm người Việt lưu vong cực đoan bao vây và định hành hung sau buổi nói chuyện của họ tại thư viện thành phố Boston. Bruce Weigl đã rút cán cờ làm “vũ khí” che chắn cho các nhà văn Việt Nam và hô to: “Tao là lính thủy đánh bộ Mỹ đây. Các người không được động đến những người bạn của tao”. Ông kể, có lần FBI đã gọi điện và muốn tiếp xúc với ông để biết vì sao ông hay đến Việt Nam. Bruce Weigl nói với FBI qua điện thoại là nếu họ muốn biết Việt Nam thì hãy đến đó. Ở đó có món phở rất nổi tiếng và còn nham nhở những tàn tích do bom Mỹ ném xuống.

leftcenterrightdel
Nhà thơ Bruce Weigl đọc thơ tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, tháng 12-2012.

Bruce Weigl là nhà thơ Mỹ dịch tập thơ Việt Nam đầu tiên ra tiếng Anh và giới thiệu với bạn đọc Mỹ từ năm 1987. Tập thơ đó có tên “Những bài thơ từ tài liệu bị bắt giữ”. Đó là tập thơ bao gồm những bài thơ ghi chép trong sổ tay của các chiến sĩ giải phóng Việt Nam bị bắt giữ, bị thất lạc trong chiến tranh. Và sau đó, ông là một trong những nhà thơ Mỹ cùng tôi dịch tập thơ “Sông núi” gồm những bài thơ tiêu biểu của các nhà thơ Việt Nam viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cách đây mấy năm, ông là người dịch tập thơ “Khát vọng hòa bình” gồm 100 bài thơ của 10 thế kỷ người Việt Nam chống ngoại xâm. Mấy năm trở lại đây, năm nào Bruce Weigl cũng đến Việt Nam chừng 3 tháng. Ông nói, ông muốn được sống nhiều hơn ở Việt Nam. Một lần, ông nói với tôi ước mơ lớn nhất cuối đời của ông là được nằm xuống yên nghỉ vĩnh viễn trên một cánh đồng lúa nước ở ngoại ô Hà Nội. Tôi từng đưa ông ra những cánh đồng ngoại ô. Ông đã ngồi xuống nắm một nắm đất trên cánh đồng đưa lên hít thở hương đất và nói: “Tôi yêu hương vị đất đai này và tôi mơ được hòa vào hương vị ấy. Anh hãy giúp tôi thực hiện ước mơ này nhé!”.

Nghe Bruce nói vậy, tôi lại nhớ vào một buổi tối năm 2013, Thạc sĩ Bùi Đức Thắng, công tác ở Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương gọi điện cho tôi thông báo: Ngày 21-7-2013, con gái và con rể của GS, TS Judith Ladinsky sẽ mang tro cốt của mẹ mình đến Việt Nam để mai táng vĩnh viễn trong Nghĩa trang Vĩnh Hằng (Ba Vì, Hà Nội). Họ đã thực hiện nguyện ước cuối cùng của mẹ mình. GS, TS Judith Ladinsky mất năm 2011. Trong những năm cuối đời, bà nói với các đồng nghiệp Việt Nam và con gái về nguyện ước trên đây. Và những người thân của bà ở hai nước đã thực hiện nguyện ước của bà. Đêm đó, tôi đã thức đến gần sáng. Tôi nhớ về bà. Tôi nhớ những ngày tháng có dịp tiếp xúc với bà. Tôi nhớ về những gì bà đã làm cho Việt Nam mà tôi được biết. Và đêm ấy, tôi cảm thấy như bà đang ở đâu đấy rất gần và tôi luôn luôn thấy bà cười. Phải yêu mảnh đất này đến nhường nào thì bà mới chọn Việt Nam là nơi yên nghỉ cuối cùng của mình…

Mấy chục năm về trước, tại sao nước Mỹ đang tiến hành chiến dịch cấm vận Việt Nam mà bà lại đến đất nước đó một cách hồ hởi và tự nguyện như vậy? Và bà đến đó để làm tất cả những gì có thể giúp những đồng nghiệp Việt Nam của bà khi đất nước này đang quá thiếu thốn, quá nghèo khó và còn nhiều lạc hậu sau cuộc chiến dai dẳng vô cùng tàn khốc. Mỗi chuyến đi của bà mang theo nhiều thứ để giúp Việt Nam: Dụng cụ y tế, thuốc men, sách nghiên cứu, giáo trình giảng dạy y học, máy móc... Bà còn đưa các bác sĩ sang Mỹ đào tạo, rồi tư vấn cho ngành y Việt Nam và mở rộng hợp tác với các ngành khác. Lúc đó, bà là Chủ tịch Ủy ban Hợp tác khoa học với Việt Nam. Ngài chủ tịch trước đó của tổ chức này đã bị một phần tử cực đoan ám sát khi ông công khai lên tiếng ủng hộ bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ và tìm mọi cách giúp đỡ ngành y tế Việt Nam. Khi lên thay ngài chủ tịch đã bị ám sát, bà tiếp tục đến Việt Nam và đến nhiều hơn trước, để giúp đỡ Việt Nam trong lĩnh vực chuyên môn của mình.

Cũng như GS Kevin Bowen và nhà thơ Bruce Weigl, GS Judith Ladinsky còn gặp phải những khó khăn thách thức từ phía đất nước mà họ đã yêu với một tình yêu kỳ lạ. Khi Mỹ vẫn còn cấm vận Việt Nam, những người Mỹ đến Việt Nam hiển nhiên trở thành mối ngờ vực tính mục đích của họ từ chính người Việt Nam. Tôi từng nghe một số người nói gay gắt khi họ không tin những người Mỹ lại có thể yêu dân tộc chúng ta. Không ít người nghĩ họ là CIA. Cũng như không ít người Mỹ không thể tin những người cộng sản đến Mỹ với một mục đích hòa bình hay thiện chí. Lịch sử có những lúc giống như một kẻ ấu trĩ, hài hước và lẫn lộn. Con người là vậy. Nhưng rồi thời gian sẽ giúp chúng ta nhìn đúng và hiểu đúng mọi chuyện. Cho đến khi mất, bà Judith Ladinsky đã vào Việt Nam tổng cộng 120 lần, nghĩa là bà đã bay 240 chuyến bay từ Mỹ đến Việt Nam và ngược lại. Tôi nghĩ, chỉ riêng việc ngồi máy bay từng ấy giờ, bay 120 vòng quanh Trái Đất, qua từng ấy sân bay quá cảnh, mang vác từng ấy đồ đạc đến Việt Nam… cũng đã đủ để chúng ta ngưỡng mộ và cảm ơn bà. Và những gì bà đã làm cho đất nước chúng ta quả là một khối lượng khổng lồ.

leftcenterrightdel
GS Judith Ladinsky

Ngay từ những ngày đầu đến Việt Nam, bà đã làm việc với những con người tuyệt vời của đất nước chúng ta, như: GS Tôn Thất Tùng, GS Nguyễn Văn Hiệu, GS Hoàng Thủy Nguyên… và bao nhà khoa học. Những con người đó đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng làm cho bà tin yêu đất nước này và dâng hiến cho đất nước này. Có những đêm cuối năm trong mưa gió giá lạnh, anh Thắng đã đưa bà đi thăm một số người quen bằng xe máy. Tôi hiểu bà nhưng sao trong đầu tôi vẫn vang lên câu hỏi: Điều gì đã làm cho một con người từ đất nước xa xôi phải xa gia đình, xa những điều kiện sống tốt nhất để đến mảnh đất này, ngồi trên một chiếc xe máy đi trong mưa gió những ngày cuối đông?

Sáng 22-7-2013, được sự đồng ý của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lễ đón tro cốt của GS Judith Ladinsky được tổ chức tại Bộ Khoa học và Công nghệ. Với những gì đã làm cho Việt Nam, bà đã được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Hữu nghị và nhiều danh hiệu cao quý của Bộ Y tế, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ), Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam... Giờ đây, xin bà hãy tin rằng: Trên mảnh đất quá nhiều chiến tranh của chúng tôi, linh hồn bà sẽ được bình an mãi mãi…

Và giờ đây là nhà thơ Bruce Weigl. Ông đã đến Việt Nam và sống như một người Việt Nam. Thi thoảng như sợ tôi quên, ông lại nhắc tôi hãy nhớ lời đề nghị của ông. Lời đề nghị xúc động lạnh cả chân tóc: “Tôi yêu hương vị đất đai này và tôi mơ được hòa vào hương vị ấy. Anh hãy giúp tôi một việc là khi tôi chết, hãy chôn tôi xuống cánh đồng này”. Lời đề nghị làm cho tôi nhận ra rằng: Có những người bạn của chúng ta lại yêu đất nước chúng ta đến thế!

Nhà văn NGUYỄN QUANG THIỀU