Mãi đến ngày 9-12-2018, Hà Nội nói riêng và cả miền Bắc mới thực sự vào đúng tiết mùa đông. Trước lễ Chúa Giáng sinh hai tuần, được mặc áo len, thế là may mắn hòa nhịp với châu Âu và các quốc gia coi Noel là ngày đặc biệt của năm, dịp nghỉ làm để sum họp gia đình, vui chơi cộng đồng, một tuần chót năm chuẩn bị đón chào năm mới.

Tết theo lịch trăng, Việt Nam và một số nước châu Á được đón năm mới hai lần. Tết Nguyên đán thời hiện đại, tuy giải phóng cho những người phụ nữ bớt vất vả, lo toan, nhưng lại làm mất đi một phần không khí Tết, đó là chuẩn bị lương thực, bánh mứt kẹo. Còn sửa sang, dọn dẹp, trang trí nhà cửa, mua sắm đồ mới, hoa thì không thể thiếu. Đồng hành với tháng áp Tết là khí lạnh. Như mặc định ngàn năm, Tết ở đâu cũng cần lạnh. Thời tiết lạnh, ăn ngon, mặc đẹp hơn, người ta cần nhau, muốn gần nhau hơn. Sự tương phản của khí hậu và cảm xúc tạo nên độ gắn kết ấm áp vô cùng, không dịp nào trong năm có được.

Mùa lạnh, ánh sáng trắng ban ngày và hơi sương ban tối làm Hà Nội đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Biến đổi khí hậu do con người tàn phá Trái Đất, băng tan, nước biển dâng, nhiệt độ tăng, Việt Nam là một trong các quốc gia chịu hậu quả không dễ gì đối phó, khắc phục. Mùa đông càng ngày càng ít rét, nên mới phải mong có lạnh giá mới thấy cần nhau, muốn bên nhau. Các cặp uyên ương nô nức cưới cuối năm, cũng vì muốn ngày vui đáng nhớ, đẹp hơn và kịp thành đôi về chung một nhà, là thành viên mới của đại gia đình mà mình là dâu/ rể.

Với hoa trái, thực phẩm, cái lạnh giúp bảo quản độ tươi lâu và an toàn hơn. Với tâm trí con người, thời tiết lạnh hay gắn với những ký ức chăm sóc, quan tâm, đoàn viên, ấm cúng. Tết Nguyên đán là cao điểm của những tình yêu thương ruột thịt, chia sẻ nhân quần được bộc lộ, gửi trao.

“Già được bát canh, trẻ manh áo mới”. Tết là dịp để lòng kính già, yêu trẻ, đạo lý, tình người, tình đời hiển hiện. Lạnh mới đủ lột tả độ “thấm” của nỗi nhớ, nhất là ký ức ngày thơ bé.

Ý nghĩa lớn nhất của Tết khiến mọi người lớn ở các thế hệ, nếu có bâng khuâng, mong đợi chính là dịp cho hồi tưởng trở về, sống động, nuối tiếc và khắc khoải.

Trẻ con thời nào cũng háo hức khi Tết đến, được nghỉ học, ăn ngon, mặc đẹp, đi chơi, được mừng tuổi... Náo nức, hớn hở, xúng xính. Phải rét mới xúng xính diện quần áo, khăn váy, mũ, giày du xuân được. Xúng xính quả là một từ không chỉ gợi hình mà còn gợi thanh, nghe như có bước chân tung tăng reo cười, chúc chào rộn rã.

Dĩ vãng, dù thế nào cũng là đặc ân của mỗi chúng ta.

Hà Nội hôm nay, Thủ đô cổ kính tuổi 1.009, sở hữu hàng ngàn năm di sản vật thể, phi vật thể của một kinh đô thành văn hiến quốc gia, còn chứa đựng triệu triệu ký ức của những con người đã sống, chết nơi địa linh này. Lịch sử Thăng Long trùm tỏa, đan kết trong hàng triệu số phận mà phù sa sông Hồng không đủ tải, chỉ phù sa tinh thần của hồn thiêng “đất rồng bay” mới trầm tích, giao hòa “vật đổi sao dời” bao biến thiên, chuyển vần, được-mất, người người lớp lớp tinh hoa máu xương hòa vào đất, hóa thành đất thánh. Lịch sử cùng những truyền thuyết, sự tích, huyền thoại vẫn sống trong từng thời đại.

Càng có tuổi, con người càng có xu hướng nhớ về thời trẻ, thời trước. Thường thì những kỷ niệm gắn với những tháng năm gian nan, thiếu thốn được nhớ lâu hơn, thấm sâu vì người ta phải khó nhọc, nỗ lực vượt qua nó, có lúc sợ, ám ảnh vì nó, nhưng khi đã vượt qua được thì thành hoài niệm sâu nặng, thấm thía vô cùng.

Thế nên Tết và xuân đến, năm mới sang, cũng là Tết về, xuân trở lại, sự mới-cũ quyện hòa tạo nên sự bồi hồi, hy vọng một mạch chủ lưu trong tâm thế thưởng Tết của người Hà Nội một thời, là nhớ lại hay là dịp để “ôn cố tri tân”, chia sẻ với nhau, cũng là cách dạy cho con cháu trong nhà và lớp trẻ về nghị lực, nỗ lực của tiền bối, tiền nhân.

Khái niệm “ngày xưa” không còn là trạng ngữ của cổ tích. Đó có thể là một gián cách về thời bao cấp cách đây 32 năm trở đi, hay thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hơn 40 năm trước. Xưa nữa, hơn 1.000 năm khi Lý Thái Tổ cắm đất làng An Xá, bên Hồ Tây, di một phần dân làng ấy sang bên kia sông, xuống “Thiên đô chiếu” và năm 1014 đắp thành đất. Nhân điềm rồng vàng từ sông Cái bay lên, người đặt tên thành là Thăng Long. Con rồng linh thiêng, mạnh mẽ ấy là biểu hiệu của đô kỳ cả nước.

Dù có nhiều điểm bắn pháo hoa, nhưng Hồ Gươm vẫn là nơi mọi người đổ về, đứng quanh hồ đón Giao thừa. Một hồ thiêng đã hội tụ biết bao người mọi châu lục, màu da, người Việt gần xa yêu Hà Nội. Đứng bên Hồ Gươm, chưa bao giờ cảm thấy lạnh.

Nhớ rét là nhớ hơi ấm bếp lửa khi trông nồi bánh chưng thời niên thiếu. Nhớ rét là nhớ áo len bà nội đan cho tôi diện Tết, len được gỡ ra từ áo được tặng của bà. Nhớ rét là nhớ những cái Tết còn đông đủ người thân. Rất khó có sự hiện diện đủ đầy của người ruột thịt, bạn bè thương mến, khi mỗi Tết cộng tuổi cho mỗi chúng ta. Ấp hai bàn tay lên má, tự sưởi ấm, hé cánh môi thở “khói” vì lạnh, chờ mưa phùn xuân từ khi thầm hát gió lộng mùa đông: Tôi mong về Hà Nội/ Để nghe gió sông Hồng thổi/ Để thương áo len cài vội/ Một chiều đông rét mướt/ Tôi mong về Hà Nội/ Tìm lại tiếng ve ngày trẻ dại/ Giọt sương sớm trên cành đào phai/ Mùi hương ngát Nghi Tàm thuở ấy/ Những hạt mưa bụi rơi... Nhạc sĩ Dương Thụ (sinh năm 1943) từ Hà Nội vào TP Hồ Chí Minh định cư, hơn 10 năm sau ông viết ca khúc “Mong về Hà Nội” với điệp khúc khắc khoải như thế và sau hơn 30 năm, lời hát này vẫn lay động bao người, hơi ấm quá khứ vẫn còn trong hiện tại. Mong rét để ấm áp bên nhau, cùng đón thời khắc thiêng liêng: Giao thừa.

Những ngày Tết Hà Nội đẹp hơn bởi vắng và thanh bình hơn. Người tứ xứ đổ về Thủ đô vì sinh kế, học hành, đến Tết thì về quê, chỉ còn lại những người Hà Nội cũ, thị dân định cư Hà Nội. Khung cảnh tinh khôi ấy của sáng Mồng Một Tết khiến lòng người thư thái, bay bổng hơn...

Tùy bút của VI THÙY LINH