Ngày 6-4-1968, Đoàn 4011B (phiên hiệu của Tiểu đoàn Pháo binh Đ74 chúng tôi) làm lễ xuất quân ở Triệu Sơn (Thanh Hóa). Một buổi chiều nhập nhoạng cuối tháng 4, đoàn xe kéo pháo của chúng tôi qua Ngã ba Đồng Lộc. Ấn tượng không thể quên của những chàng trai lần đầu ra trận là bên đường, một hàng dài các cô gái vai khoác dù pháo sáng trắng tinh, đứng làm cọc tiêu, dẫn đường cho xe pháo vượt qua những cung đường xấu vừa san sửa vội vàng. Xe xích, xe tăng là nỗi kinh hoàng cho mọi con đường, nhưng chính phương tiện có sức kéo lớn này cũng thường xuyên bị sa lầy trên những con đường cấp phối, nhất là vào mùa mưa. Đêm 6-5-1968, mưa lớn, không vượt qua được đèo Phu La Nhích, một xe kéo pháo phải quay lại đường tránh Cua Chữ A, còn đơn vị trở về vị trí trú quân cũ. Hôm sau (7-5), cả đơn vị bàng hoàng khi nghe tin B-52 vừa rải trúng khu vực chiếc xe đó. Mấy chiến sĩ hy sinh khi cả xe đang quây quần ăn cơm trưa... Các chiến sĩ thông tin và bộ đàm bị thương được đưa vào cấp cứu ở trạm xá nằm trong hang đá cạnh Cua Chữ A. Các chiến sĩ hy sinh được cáng về nghĩa trang cạnh cây số 72, Đường 20A. Mưa đầu mùa dữ dội, thấm máu các chiến sĩ chảy dài trên chặng đường đưa họ về nghĩa trang...

Chính trị viên đại đội Nguyễn Thế Kỷ, quê ở Hà Tây, là một người hoạt bát, vui tính, nhưng hôm đó bị xúc động đến mất tiếng. Chính trị viên tiểu đoàn Đỗ Son trao cho tôi tờ giấy đánh máy sẵn, là điếu văn mượn của Đại đội Nguyễn Viết Xuân đang bảo vệ cung đường, để tôi đọc khi mai táng các đồng đội. Trên trời đầy máy bay trinh sát và ném bom chao lượn. Mấy loạt đạn bắn lên để tiễn đưa các chiến sĩ, có lẫn mấy viên đạn lửa chỉ đường cũng làm anh em lo lắng. Ánh sáng từ cây đèn pin che lại bằng hạt ngô, giúp tôi vừa dựa vào mẫu viết sẵn, vừa vận dụng điều chỉnh câu chữ phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đơn vị, để các liệt sĩ nhận ra đám tang dành cho mình. Hôm sau, toàn đại đội mới chính thức làm lễ truy điệu. “Áng văn” đầu tiên tôi viết ở chiến trường không ngờ lại là bài điếu văn tiễn biệt 4 đồng đội hy sinh trên đường ra trận.

leftcenterrightdel
Sinh hoạt của bộ đội trong rừng Trường Sơn. Tranh của ĐỨC DỤ

Khi đơn vị chúng tôi vào đến tây Thừa Thiên thì đợt 2 của Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã kết thúc, nên phải dừng chân ở một khu rừng thưa, triển khai đào công sự che giấu xe pháo, đơn giản vì rừng già thường là nơi B-52 rải thảm vô tội vạ. Mùa mưa đến, chiến trường Trị Thiên nổi tiếng về đói và sốt rét. Theo chủ trương của quân khu và binh trạm, đơn vị phải tăng gia tự túc. Tiêu chuẩn ăn nhiều tháng rút còn 2 lạng gạo mỗi ngày nên chúng tôi phải đi kiếm rau, củ và thân chuối rừng độn thêm. Săn bắn được con vật nào 4 chân thì chia cho 3 đại đội và tiểu đoàn bộ, còn đại đội nào săn bắn được thì hưởng cái thủ và bộ lòng. Săn bắn được loài hai chân thì không phải chia. Đại đội 3 của tôi có mấy chiến sĩ người dân tộc ở các tỉnh phía Bắc, khá thạo nghề này, nên liên tục bắn được. Có đại đội mấy tuần không kiếm được con nào, bị “khích bác”, cáu tiết nên không cho bộ đội đi nhận phần được chia nữa. Họ chuyển sang đi tát cá, bắt ốc, cua ở suối...

Trụ được mấy tháng, cấp trên cho phép đơn vị đưa một số chạy ra tránh đói ở làng Ho. “Lính cậu” hầu như anh nào cũng từng qua mấy trận sốt rét, nên phải trèo đèo lội suối mất chục ngày mới tới làng Ho.

Tháng 11-1968, bắt đầu mùa khô, đơn vị trở lại chiến trường. Lần này di chuyển qua Mường Noong thuộc tỉnh Savannakhet của nước bạn Lào, vừa đo đạc chuẩn bị đội hình chiến đấu, đề phòng khi địch tấn công lên miền Tây. Đã có kinh nghiệm tổ chức cuộc sống ở chiến trường, ngoài thời gian huấn luyện chiến đấu, đơn vị lo phát rẫy tăng gia, trồng rau và đặc biệt chú ý chăn nuôi. Đồng bào Lào vùng này chủ yếu là dân tộc Lào Thưng nên khá hiền lành và rất quý bộ đội. Bộ đội ta nảy ra sáng kiến lập lò rèn để rèn dao, kiềng là những thứ bộ đội và đồng bào đều cần. Các vật dụng này mang vào bản đổi lợn, chó, gà... thì đồng bào rất thích. Chẳng bao lâu, trong chuồng của các đại đội đã có gần chục con lợn, mấy chục con gà, gần chục con chó...

Vậy là việc đón Tết Kỷ Dậu 1969 được chuẩn bị chu đáo. Thấy vậy, Đại đội trưởng Viễn có sáng kiến cho chiến sĩ chế biến món ăn Tết theo kiểu của từng vùng quê. Bánh thì có bánh chưng, bánh tét, bánh ú, bánh nếp, bánh cuốn, bún… Giò thì có giò lụa giã trong mũ sắt, giò thủ, giò tai, giò trứng, giò gà... Rồi mọc, măng, mộc nhĩ, nộm thân chuối, bắp chuối, củ chuối rừng, trứng tráng, trứng cuộn thịt, các loại rau rừng... Nước chấm cũng đến gần chục loại, dù chỉ được cấp ma ri cô. Lại còn có một ít kẹo do binh trạm cấp. Trong cuốn sổ ghi chép cá nhân tôi còn giữ được, nay đọc lại thấy tổng cộng đến 42 món, kể cả nước chấm. Năm đó, tiểu đoàn có tổ chức cuộc kiểm tra để xem đại đội nào tổ chức Tết khá nhất. Khi đoàn kiểm tra đến đại đội chúng tôi, được mời ăn, vị nào cũng vừa kinh ngạc, vừa thú vị. Chỉ riêng món thịt, không chỉ có thịt luộc và kho mà còn thịt nướng, thịt quay, thịt hầm... rồi gà hấp, gà luộc, gà kho, gà xé phay... lại còn cá chép suối đánh bắt được chế biến rất điệu nghệ. Khen thì khen vậy, nhưng khi chấm điểm thì đại đội tôi bị xếp hạng bét. Lý do là năm đó binh trạm quy định tiêu chuẩn Tết cho mỗi người là 2 lạng thịt các loại, thế mà chỉ riêng một bữa, đại đội tôi mỗi người đã “chén” gần nửa cân là vi phạm quá nặng. Hết cãi!

Giao thừa năm đó, giữa rừng núi chiến trường, quây quần xung quanh chiếc đài Xiongmao vừa được ưu tiên đôi pin xuất kho, trong giờ phút thiêng liêng, chúng tôi hồi hộp và xúc động lắng nghe thơ chúc Tết của Bác Hồ:

      Năm qua thắng lợi vẻ vang,

Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.

      Vì độc lập, vì tự do,

Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.

      Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào,

Bắc-Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!

Vào giờ phút đó, không ai trong chúng tôi dám nghĩ đó là bài thơ chúc Tết cuối cùng của Bác Hồ kính yêu. Nhưng nhiều năm sau, suy ngẫm lại, chúng ta thấy trong bài thơ chỉ 42 chữ đó, Người đã trao lại cho quân và dân ta toàn bộ bí quyết cũng như “mật lệnh” chiến đấu để đi đến thắng lợi cuối cùng...

Sau Tết Kỷ Dậu 1969, đơn vị chúng tôi chuyển loại sang sử dụng DKB, trong đội hình Trung đoàn 675B, chuyển sâu vào phía trong. Với tinh thần chủ động tấn công nên trước khi đi, đại đội tôi chỉ cho mang theo lương thực, thực phẩm đủ trong một tuần. Hầu hết các loại gia cầm, gia súc chăn nuôi đều để lại hậu cứ, cử mấy chiến sĩ đau yếu ở lại trông coi. Vậy rồi cứ đi hun hút, từ giã trung đoàn cũ, tiểu đoàn chuyển sang thành lập Trung đoàn 368, chuẩn bị cho Chiến dịch Đường 9-Nam Lào... Cùng năm đó, tôi được điều đi đơn vị khác. Nửa thế kỷ đã trôi qua, mỗi lần gặp lại đồng đội cũ, trong ký ức về những năm tháng gian khổ, thiếu thốn giữa chiến trường, những ngày Tết Kỷ Dậu 1969 tưng bừng vẫn là niềm tự hào về sự tháo vát, chủ động, linh hoạt để tự tạo một cái Tết mà chắc chắn không bao giờ còn có thể.

Nhà văn NGÔ THẢO