Văn hóa tâm linh có hai đặc điểm chính: Tính thiêng và tính hòa giải. Khi chúng ta nói: Vùng đất “địa linh nhân kiệt”, “hào khí núi sông”, “cơ trời vận nước”... chính là nói về tinh, khí, thần, tức là tính thiêng của một địa danh, địa chỉ với những con người linh thiêng, như Thành hoàng của làng, cụ Tổ của nghề... Những anh hùng chính sử, như: Trần Hưng Đạo, Quang Trung...; những danh nhân văn hóa, như: Chu Văn An, Lê Quý Đôn... hoặc một anh hùng huyền thoại như Thánh Gióng, một biểu tượng thờ Mẫu như bà Liễu Hạnh... đều là đối tượng sùng kính, ngưỡng mộ tôn vinh và noi gương. Việc hướng về cội nguồn, biết ơn người đã khuất, tri ân công trạng của các bậc tiên hiền, tôn vinh những danh nhân có công với nước, với dân... là phong tục đẹp ở nước ta. Ở đây không có chỗ cho những hành vi mê tín dị đoan, hiện tượng trục lợi tình cảm linh thiêng của con người đối với thần thánh, cho những kẻ làm ăn phi pháp “buôn thần bán thánh” để lừa bịp những ai nhẹ dạ cả tin. Đồng thời, giáo lý của các tôn giáo lớn ở nước ta có một đặc điểm chung là tính hòa giải. Ba tôn giáo là Phật giáo, Thiên Chúa giáo và Đạo giáo được du nhập từ nước ngoài, nhưng khi vào nước ta đều được bản địa hóa, dân gian hóa, phong tục hóa để dễ bề truyền bá. Giáo lý của 3 tôn giáo cũng có nhiều điểm rất khác nhau, có những tri thức rất cao siêu, suy lý tư biện, thậm chí huyền bí; nhưng ở cả 3 đều mang tính nhân văn, lấy con người làm trung tâm: Yêu con người, cầu mong xã hội thái bình, quốc thái dân an, mở rộng lòng bác ái công bằng, từ, bi, hỷ, xả, triết lý sống gắn với thiên nhiên... Lấy giáo lý đạo Phật làm ví dụ: Đức Phật Tổ đắc là nhờ ngài tìm được hai thuyết lớn: Tứ diệu đế và thập nhị nhân duyên. Trên thực tế, đại đa số nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nước ta không biết những triết lý sâu xa của đức Phật Tổ, chỉ biết việc cầu phúc, chuyện quả báo luân hồi, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, tu nhân tích đức để hưởng hạnh phúc kiếp sau. Đây là dáng nét lấp lánh của văn hóa tâm linh. Người ta nói triết lý Phật giáo chuyển thành đạo đức học là vì vậy.

Ở nước ta, tính đến nay có hơn 8.000 lễ hội với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Lễ hội là hình thái tín ngưỡng có từ thời cổ đại, khi con người bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên. Những vị thần, vị thánh mà người lao động suy tôn lên chính là những bậc thầy nghề nghiệp, những tài năng đã chiến thắng thiên nhiên, những anh hùng dân tộc đã đại thắng các thế lực xâm lược, giữ gìn bờ cõi. Và lễ hội là những dịp tôn vinh các vị thần, thánh ấy. “Lễ” là niềm tin, là tín ngưỡng; “hội” là vui chơi, là chuyện thế tục. Vậy mà hai hình thái văn hóa mang hiện tượng đối nghịch: Thiêng và tục; đạo và đời; duy lý và duy cảm; trí tuệ và tâm linh... lại hòa quyện vào nhau tạo nên luồng giao hòa tâm linh giữa người với người, giữa người với thần-thánh, với vũ trụ... Lễ hội là hiện tượng tâm linh hướng tới cái cao cả, cái thiện, cái mỹ. Chính hạt nhân hợp lý này đã làm cho hai nghịch lưu hòa nhập vào một, làm cho đời sống văn hóa đương đại thêm phong phú, hữu ích.

Xin bàn thêm về hai hiện tượng tín ngưỡng dân tộc là tục đốt vàng mã và xem sao đoán mệnh. Nhiều người mê tín cãi lý: Đốt vàng mã là công đoạn của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, việc gì phải cấm đoán? Nói như vậy là sai. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có từ lâu đời, là nét đẹp văn hóa cần được bảo tồn và phát huy. Bảo tồn cái đức và cái tâm của con cháu đối với các bậc tiên liệt. Người còn sống tin rằng: Tổ tiên, ông bà đã khuất là thiêng liêng, linh hồn vẫn còn “sống” bên cạnh con cháu. Những khi xuân về, Tết đến, những ngày giỗ chạp, tổ tiên phù hộ cho con cháu khi gặp điều không may, ân thưởng con cháu lúc làm điều lành, quở trách kẻ hậu sinh làm chuyện vô luân, vô đạo. Còn chuyện đốt hương nơi đình, chùa, cho rằng đốt càng nhiều thì lòng thành càng lớn, đốt vàng mã ở gia đình với tâm niệm “dương sao âm vậy” có khi tốn bạc triệu; hiện tượng những lò lửa hóa vàng tàn bay tung tóe ở đền Bà Chúa Kho với những mâm lễ bạc triệu, thậm chí hàng chục triệu đồng, với vàng, bạc giả để dâng lên… là những chuyện vừa phi lý vừa nhảm nhí. Bà Chúa Kho là biểu tượng văn hóa của người xưa tri ân người phụ nữ tận trung với nước, hiếu nghĩa với dân, liêm khiết bảo vệ kho lương thực dự trữ quốc gia... thì sao để những kẻ cuồng tín biến thành nơi mua-bán, vay-trả một cách thô tục? Tiếc rằng, trong số đó có không ít người là cán bộ, viên chức muốn sống “ký sinh” vào sức mạnh của thần, thánh từ mùa lễ hội này sang mùa lễ hội khác. Những hiện tượng nói trên cần được công luận lên án và pháp luật cưỡng chế. Tương tự, tục xem sao đoán mệnh cũng là một hành vi “rởm” của “đạo giáo” phù thủy. Một số người biết mình có sao xấu, như: Kế Đô, La Hầu, Thái Bạch... thì lo lắng, tìm mọi cách cúng sao để giải hạn, hy vọng tai qua nạn khỏi. Có cầu thì có cung, nhiều chùa lập lễ giải hạn, cúng sao, niêm yết lịch dâng sao giải hạn với mức chi phí mà người được giải hạn phải đóng góp không hề nhỏ.

Xem sao giải hạn để đoán mệnh một con người là tập tục lâu đời của Đạo giáo nhằm giải quyết phần tâm lý-tâm linh cho đối tượng được xem, được đoán. Trong quan niệm của người phương Đông thời cổ đại, mọi người sinh ra đều có một vì sao chiếu mệnh tùy theo năm, có sao tốt và sao xấu. Có tất cả 24 sao chia thành 9 chòm: La Hầu, Thổ Tú, Thủy Diệu, Thái Bạch, Thái Dương, Vân Hớn, Thái Âm, Kế Đô, Mộc Đức. Trong giáo lý đạo Phật không có chuyện cúng sao chiếu giải hạn. Trên thực tế, số đông người ít nghĩ đến chuyện đồng bóng, xem sao giải hạn mà vẫn gặp vận may, dù có đi chùa hay không, dù có gặp sao tốt hay không thì họ vẫn an cư lập nghiệp, sức khỏe dồi dào. Niềm tin vào sao đoán mệnh là chuyện nhảm nhí, đối lập với chuyện cầu an, cầu phúc của Phật giáo.

Mùa xuân, theo quy luật muôn đời của vũ trụ là thời gian sinh sôi, phát triển của mọi vật, là thời khắc giao hòa giữa vũ trụ và con người, giữa trời và đất, giữa dương và âm. Nước ta là nước nông nghiệp, quanh năm làm lụng vất vả, hai sương một nắng để có cái ăn, cái mặc. Chỉ có mùa xuân là thời gian nông nhàn. Câu ca dao “Tháng Giêng là tháng ăn chơi” không nên hiểu theo nghĩa đen. “Ăn chơi” ở đây nên nhận thức theo nghĩa biểu tượng của một phong tục mùa xuân: Mùa lễ hội, nơi gặp gỡ của những người lao động bình dân, của những đôi trai gái với nhiều trò chơi, trò diễn mang ý nghĩa phồn thực. Mùa lễ hội thường diễn ra ở miền đất thiêng, như: Chùa, đình, miếu, nhà thờ họ, nơi tưởng niệm, tôn vinh các nhân vật siêu nhiên, các anh hùng dân tộc, các liệt sĩ hy sinh vì dân, vì nước... Thời hiện đại, lễ hội không mất đi mà trái lại đang phát triển, gắn với hoạt động du lịch. Tuy nhiên, cần nhìn nhận lễ hội, tín ngưỡng bằng “con mắt xanh”, biện chứng giữa lý và tình, cộng đồng và cá nhân... Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể kế thừa, phát huy lễ hội thành hành trang tinh thần để đi vào đời sống văn minh, hội nhập và phát triển.

Giáo sư  HỒ SĨ VỊNH