Lịch sử thế giới ghi nhận, Na-pô-lê-ông Bô-na-pác là một thiên tài quân sự, một nhà độc tài, tuy nhiên, ít ai biết đến tài năng của ông trong những lĩnh vực khác như cải cách kinh tế, xã hội, giáo dục... những cải cách mang tính chất nền móng cho nước Pháp sau này. Tuổi trẻ của một thiên tài

Tuổi trẻ của Na-pô-lê-ông trôi qua trong một gia đình quý tộc không giàu có ở đảo Coóc. Na-pô-lê-ông được học tập trong trường quân sự Pa-ri (1785-1799), ra trường với hàm trung úy. Khi được bổ nhiệm làm Tư lệnh pháo binh của quân đội, Na-pô-lê-ông đã tiến hành các chiến dịch quân sự đem lại thành công rất lớn cho quân đội Pháp, nhờ đó được phong hàm tướng pháo binh. Năm 1795, Na-pô-lê-ông lại nổi bật trong vai trò giải tán cuộc nổi loạn ở Pa-ri và sau đó được bổ nhiệm làm tư lệnh đội quân có tên “Quân đội I-ta-li-a”. Trong giai đoạn này, Na-pô-lê-ông đã lãnh đạo đội quân này giành hết chiến thắng này đến chiến thắng khác. Người I-ta-li-a rất tôn trọng quân đội của Na-pô-lê-ông - một quân đội thực hiện các ý tưởng tự do, bình đẳng và chống lại quyền bá chủ của đế chế Áo. Áo hầu như mất tất cả các phần đất của mình ở phía Bắc nước I-ta-li-a. Tên tuổi của Na-pô-lê-ông trở nên vang dội khắp châu Âu. Sau những chiến thắng ban đầu, Na-pô-lê-ông lại đặt ra cho mình mục tiêu mới là phải giành được quyền hành động độc lập và thực hiện chiến dịch khai phá Ai Cập. Ý tưởng này gắn liền với mong muốn của giới tư sản Pháp trong việc cạnh tranh với người Anh (khi đó người Anh đã rất tích cực mở rộng ảnh hưởng của mình đến châu Á và Bắc Phi). Tuy nhiên, Na-pô-lê-ông đã không thực hiện được tham vọng của mình vì khi tiến hành chiến tranh với Thổ Nhỹ Kỳ, quân đội Pháp đã không giành được sự ủng hộ của người dân địa phương.

Vào thời điểm Na-pô-lê-ông lên nắm quyền, Pháp đang trong giai đoạn chiến tranh với Áo và Anh. Để tập trung vào hai mặt trận này, Na-pô-lê-ông đã quyết tâm giải quyết vấn đề ở I-ta-li-a. Hành quân qua dãy An-pơ, đoàn quân của Na-pô-lê-ông được chào đón nồng nhiệt ở bắc I-ta-li-a. Chiến thắng quyết định trong trận chiến ở Ma-ren-gô (1801) đã giúp Na-pô-lê-ông giải quyết được mối đe dọa đối với biên giới nước Pháp từ phía Đông.
     Cải cách nước Pháp

Chính sách đối nội của Na-pô-lê-ông được thực hiện nhằm củng cố quyền lực cá nhân. Quyền công dân, quyền sở hữu đất đai của nông dân cũng như của những người đã mua tài sản nhà nước trong thời gian diễn ra cách mạng Pháp được bảo đảm bằng Bộ luật dân sự (1804) - Bộ luật đã đi vào lịch sử nước Pháp. Đồng thời, Na-pô-lê-ông cũng tiến hành các cải cách hành chính khi cho thành lập các cơ quan hành chính cấp quận trực thuộc chính quyền (1800), bổ nhiệm các thị trưởng ở thành phố và tỉnh trưởng ở nông thôn. Ngoài ra, Na-pô-lê-ông còn ban hành sắc lệnh thành lập Ngân hàng quốc gia Pháp với nhiệm vụ lưu giữ nguồn dự trữ vàng và phát hành tiền giấy (1800), hủy bỏ hệ thống thu thuế của người dân. Phong cách làm việc mới của chính quyền và những cải cách pháp luật của Na-pô-lê-ông đã đặt những nền móng cho việc xây dựng quốc gia hiện đại. Đến tận ngày nay, một số những cải cách này vẫn phát huy tác dụng trong xã hội Pháp hiện đại.

Cũng trong thời điểm này, Na-pô-lê-ông cho thành lập một loạt các trường trung học và đại học. Một trong số đó là trường Đại học Bách khoa, hiện đang là một trong những trường đại học danh tiếng nhất của Pháp.

Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc tác động lên dư luận xã hội, Na-pô-lê-ông cho phát hành báo chí và đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền. Ngoài ra, Na-pô-lê-ông còn cho thành lập một lực lượng cảnh sát hùng hậu và Cục mật vụ. Chính hoạt động của Cục mật vụ đã định hướng cho Na-pô-lê-ông có quan hệ đúng đắn với Giáo hoàng, nhờ đó chính quyền mới của Pháp được công nhận và Thiên chúa giáo được coi là tôn giáo của phần lớn người dân nước Pháp. Mặc dù Thiên chúa giáo chiếm phần lớn dân số nhưng quyền tự do tín ngưỡng của người dân vẫn được Na-pô-lê-ông coi trọng, hoạt động của các nhà thờ không bị chính quyền cấm đoán.

Chính sách kinh tế được Na-pô-lê-ông thực hiện nhằm duy trì ngôi vị đứng đầu của nền công nghiệp Pháp và của giới tư sản tài chính trên thị trường châu Âu. Tuy nhiên, bước đi này của Na-pô-lê-ông bị giới tư bản Anh cản trở bằng sức mạnh do cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đem lại. Người Anh thành lập hết liên minh này đến liên minh khác để chống lại Pháp. Anh cố gắng lôi kéo những cường quốc lớn nhất châu Âu lúc bấy giờ là Áo và Nga đứng về phía mình, đồng thời cung cấp tài chính cho các hoạt động quân sự diễn ra trên đất châu Âu. Đứng trước tình thế này, Na-pô-lê-ông quyết định đưa quân đánh trực tiếp vào Anh. Tuy nhiên, sức mạnh quân Anh ở trên biển hơn hẳn quân Pháp nên hạm đội Pháp đã bị quân Anh (dưới sự chỉ huy của đô đốc Nen-xơn) tiêu diệt (1805). Một tháng sau đó, ở trận chiến Au-xtéc-lic (hiện nay là ở Xláp-kốp - Cộng hòa Séc), Na-pô-lê-ông đã giáng đòn chí mạng vào liên quân Nga-Áo. Trên đà chiến thắng, quân Pháp tiến vào Béc-lin. Trong trận chiến tại Ê-i-lau (1807), quân Nga đã làm cho quân Pháp phải gánh chịu những tổn thất nặng nề nhưng lại chịu thất bại trước quân Pháp trong trận đánh ở Plít-lan.

Sau một loạt các trận chiến, Na-pô-lê-ông đã thu nạp được Bỉ, Hà Lan, phía Bắc nước Đức và một phần I-ta-li-a vào lãnh thổ của mình. Trong phần còn lại của I-ta-li-a, Trung Âu và Tây Ban Nha, Na-pô-lê-ông cho thành lập các vương quốc do những thành viên trong gia đình mình điều hành (1809). Trước sức mạnh của Na-pô-lê-ông, Áo buộc phải ký kết liên minh với Pháp, sau đó là đến lượt Nga.

Sau khi giành chiến thắng, Na-pô-lê-ông ký sắc lệnh phong tỏa toàn bộ châu Âu. Từ đó, Pháp và các nước đồng minh đã chấm dứt các quan hệ thương mại với Anh, trong khi đó châu Âu lại là thị trường chính tiêu thụ các hàng hóa của Anh. Sắc lệnh của Na-pô-lê-ông đã đem đến những thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế Anh. Một năm sau đó, nền kinh tế Anh rơi vào tình trạng khủng hoảng. Các ngành chịu nhiều thiệt hại nhất là công nghiệp len, dệt may, đồng thời đồng bảng Anh mất giá liên tục. Tuy nhiên, sắc lệnh của Na-pô-lê-ông cũng đem đến những tổn thất không nhỏ đối với châu Âu. Nền công nghiệp Pháp không thể thay thế được vai trò của nền công nghiệp Anh trên thị trường châu Âu. Việc chấm dứt quan hệ kinh tế và thương mại với Anh làm cho các thành phố cảng của Pháp rơi vào cảnh thiếu hụt hàng hóa tiêu dùng nghiêm trọng. Người dân không có đủ các hàng hóa thường nhập của Anh trước đó như cà phê, chè, đường…

Chính sách cai trị của Na-pô-lê-ông trong những năm đầu cầm quyền nhận được sự ủng hộ của phần lớn người dân. Điều đó là do những cải cách trong lĩnh vực kinh tế đã đem lại kết quả, lương cho người làm thuê được tăng lên đáng kể. Điều này cũng góp phần làm cho việc tuyển quân trở nên dễ dàng hơn. Khi đó, Na-pô-lê-ông được coi là vị anh hùng dân tộc, người "cứu thế" cho nước Pháp. Hơn nữa, Na-pô-lê-ông lại không có quan điểm phân biệt về thành phần xuất thân, phần lớn các tướng lĩnh của quân đội Na-pô-lê-ông đều xuất thân từ những tầng lớp "dưới đáy" xã hội. Chính vì vậy, khi chiến tranh xảy ra, toàn bộ người dân Pháp đã đứng lên ủng hộ Na-pô-lê-ông, tạo thành sức mạnh giúp quân đội Na-pô-lê-ông giành hết chiến thắng này đến chiến thắng khác.
     Thoái trào

Cuộc chiến tranh liên miên kéo dài tới 20 năm khiến người dân Pháp cực kỳ chán nản, việc tuyển quân của Na-pô-lê-ông ngày càng gặp khó khăn. Trong giai đoạn này, nền kinh tế Pháp lại rơi vào tình trạng khủng hoảng. Giới tư sản Pháp nhận thức được rõ ràng rằng toàn châu Âu không còn phụ thuộc vào nền kinh tế Pháp nữa. Chiến tranh tại các khu vực của châu Âu không còn có ý nghĩa với Pháp khi chi phí cho các cuộc chiến ngày càng tăng cao.

Thực hiện chính sách đối ngoại với tham vọng chủ yếu là củng cố và mở rộng quyền lực của mình, bảo đảm cho các lợi ích của triều đại, Na-pô-lê-ông đã chia tay với người vợ đầu tiên (hai người không có con) để cưới công chúa nước Áo là Ma-ri-a Lu-i-dơ (1810). Một năm sau đó hai người sinh con.

Các quốc gia đồng minh của Pháp trong việc tiến hành phong tỏa châu Âu khi nhận thấy việc làm này chống lại lợi ích của chính mình, đã không tuân thủ chặt chẽ sắc lệnh của Na-pô-lê-ông. Chính vì vậy, quan hệ giữa các quốc gia này với Pháp ngày càng trở nên căng thẳng, rõ ràng nhất là căng thẳng giữa Nga và Pháp. Trong khi đó, các phong trào yêu nước bắt đầu trỗi dậy ở Đức và Tây Ban Nha.

Sau khi cắt đứt quan hệ với A-lếch-xan-đơ đại đế, Na-pô-lê-ông đã quyết định cho quân xâm lược Nga. Tuy nhiên, đội quân hùng hậu của Na-pô-lê-ông nhanh chóng bị quân Nga giáng cho những đòn chí mạng và nhanh chóng tan rã. Liên quân chống Pháp ngày càng lớn mạnh cùng với những bước tiến của quân đội Nga sang phía Tây với thành phần gồm quân Nga, quân Áo và Thụy Điển (16-19 tháng 10 năm 1813). Quân Na-pô-lê-ông nhanh chóng bị thất bại và sau khi liên quân tiến vào Pa-ri, Na-pô-lê-ông buộc phải rời bỏ ngai vàng của mình và bị đày đến hòn đảo En-ba, Địa Trung Hải (1814).

Sau một thời gian ở En-ba, Na-pô-lê-ông đã tìm cách trốn thoát và quay trở lại Pa-ri, khôi phục lực lượng và tiếp tục tiến hành chiến tranh. Trận chiến "100 ngày" kết thúc bằng thất bại hoàn toàn của quân đội Na-pô-lê-ông tại Oa-téc-lô ngày 18-6-1815. Na-pô-lê-ông bị bắt làm tù binh của quân Anh và bị đày đến hòn đảo xa xôi Xanh Ê-lê-na ở Đại Tây Dương. Na-pô-lê-ông sống những ngày tháng cuối đời của mình ở đây (6 năm). Na-pô-lê-ông mất vì bệnh nặng.

Na-pô-lê-ông là người có một trí nhớ tuyệt vời và khả năng làm việc hiếm thấy. Ngoài ra, những phẩm chất khác như thông minh sắc sảo, kiệt xuất về ngoại giao, tướng lĩnh tài ba, một nghệ sĩ, phong cách tiếp xúc rất hấp dẫn và lôi cuốn đã giúp Na-pô-lê-ông dễ dàng thu phục được người khác. Mặc dù tên tuổi của Na-pô-lê-ông đã đi vào lịch sử thế giới loài người nhưng đế chế Na-pô-lê-ông kết thúc một cách thảm hại. Kết cục cuối đời của Na-pô-lê-ông thực sự gây chấn động đối với xã hội Pháp lúc bấy giờ, trong đó có các họa sĩ, nhạc sĩ, nhà thơ, đồng thời nó cũng tạo ra nhiều đề tài cho chủ nghĩa lãng mạn của văn hóa châu Âu trong hàng thập kỷ sau đó. Tài thao lược quân sự của Na-pô-lê-ông cũng được đưa vào trong các sách dạy quân sự. Chế độ quân chủ của Bu-bo-nốp sau đó cũng không thể làm mất đi những kết quả trong các mặt xã hội do Na-pô-lê-ông xây dựng nên.

ĐỨC HÀ (Theo báo Nga)