Năm 2018, Lý Chanh Ry tốt nghiệp ngành sư phạm ngữ văn Khmer Nam Bộ, Trường Đại học Trà Vinh. Năm sau, anh tình nguyện nhập ngũ và được cử đi học văn bằng 2 tại Trường Sĩ quan Chính trị rồi về Trung đoàn 1 công tác. Là người con của đồng bào Khmer cùng kỹ năng đào tạo cơ bản, Chanh Ry trở thành một trong hai giáo viên được đơn vị giao đảm nhiệm lớp bồi dưỡng tiếng Khmer. Trung úy Lý Chanh Ry, Chính trị viên Đại đội 5 (Tiểu đoàn 307) cho biết: “Quá trình học tiếng Khmer khó nhất là phiên âm bởi với một số từ đồng âm, chẳng hạn như từ “Mìnl”, dịch sang tiếng Việt là “có” hoặc “giàu”. Như trong câu “Khơ-nhum-mìnl-cô-rùal-xa-hơi” thì dịch tiếng Việt “Tôi đã có gia đình rồi”; còn “Khơ-nhum-chia-nạt-mìnl” thì lại có nghĩa “Tôi là một người giàu”.

leftcenterrightdel
                                                    

Học viên lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc Khmer của Trung đoàn 1, Sư đoàn 330 (Quân khu 9) trao đổi, tìm hiểu phong tục với nhà sư chùa Sô-quách-ra-ram Sốc-pô-lok ở phường Chi Lăng, thị xã Tịnh Biên (An Giang). Ảnh: PHƯƠNG NHẬT

Cùng với đó, tiếng Khmer có 33 phụ âm và 25 nguyên âm nên học viên gặp khó khi phát âm, nhất là với cán bộ, chiến sĩ chưa tiếp cận cơ bản ngôn ngữ này. Mặt khác, phương ngữ Khmer Nam Bộ chưa thống nhất trong vùng mà có những từ khác biệt giữa các địa phương, vì vậy, ngoài tập trung nghe giảng trên lớp, các nhóm giao tiếp, trao đổi là biện pháp hữu hiệu để bổ sung vốn từ vựng. Trong giao tiếp bằng tiếng Khmer, một nhân vật có thể gọi bằng nhiều cách khác nhau. Ví như từ “cha” của tiếng Việt có thể gọi bằng: Pà, ầu, à-phụt... Phải nắm vững nghĩa các từ ngữ đó, áp dụng vào từng địa phương trong giao tiếp sẽ dễ hiểu hơn. Không chỉ vậy, một số cặp từ khi phát âm sẽ dài hơn, như tiếng Việt là “con dâu” thì tiếng Khmer là “Côn-bra-xa-xrây”.

Do vậy, qua những buổi thực tế không chỉ giúp học viên hiểu thêm đời sống, sinh hoạt của đồng bào mà còn rèn luyện kỹ năng nghe, nói tiếng Khmer. Thượng úy Sơn Lai, Chính trị viên Đại đội 1 (Tiểu đoàn 309) chia sẻ: “Ở một số vùng, người dân giao tiếp có sử dụng tiếng Việt xen lẫn tiếng Khmer, tôi có thể hiểu và đoán được ý của bà con. Tuy nhiên, phải nắm vững tính đa dạng của ngôn ngữ này mới có thể trao đổi mạch lạc”.

Rõ ràng, việc học ngôn ngữ cùng những kiến thức văn hóa về đồng bào Khmer tích lũy từ các lớp bồi dưỡng giúp bộ đội thực hiện tốt hơn nhiệm vụ tuyên truyền, vận động đồng bào Khmer chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đó cũng là nền tảng cơ bản đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ kiên trì học hỏi, rèn luyện để sử dụng thành thạo trong quá trình công tác.

Thượng tá Trần Thành Trung, Chính ủy Trung đoàn 1, cho biết: “Do thực hiện cùng lúc nhiều nhiệm vụ, lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc Khmer chỉ duy trì ngày cuối tuần. Theo đó, mỗi lớp trên 100 đồng chí được hướng dẫn kỹ năng phát âm tiếng Khmer thông qua các chủ đề giao tiếp thông dụng hằng ngày. Sắp tới, chúng tôi xây dựng kế hoạch, quán triệt bộ đội nhận thức sâu sắc vị trí, ý nghĩa nội dung này; nhất là phát huy vai trò của cán bộ, đoàn viên người dân tộc Khmer hiểu biết sâu sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết Khmer hướng dẫn, bồi dưỡng thêm cho anh em”.

Từ năm 2022 đến nay, các đơn vị thuộc LLVT Quân khu 9 tổ chức 9 lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc Khmer cho gần 800 cán bộ, chiến sĩ; 4 lớp tiếng dân tộc Khmer cho hơn 250 cán bộ. Thông qua phương pháp phối hợp với trường đại học và tự tổ chức lớp học tiếng Khmer, các lớp từng bước khẳng định hiệu quả thiết thực của Chỉ thị 105 ngày 26-5-2020 của Bộ Quốc phòng “Về việc tăng cường học tập ngoại ngữ và tiếng dân tộc thiểu số trong toàn quân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”.

TRUNG KIÊN