QĐND - 9 năm kháng chiến chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc, nhân dân Việt Nam đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của những người bạn yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Trong số đó, đặc biệt phải kể tới Lê-ô Phi-ghê, Rây-mông Đi-en, Hăng-ri Mác-tanh, những chiến sĩ tiêu biểu, đại diện cho ý chí của các tầng lớp nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình, đấu tranh ủng hộ Việt Nam.
 |
Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Lê Văn Lương tiếp Lê-ô Phi-ghê (bên phải) đến thăm Trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) tại làng Luông, xã Bình Thành, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, tháng 2-1950.
|
Lê-ô Phi-ghê
Lê-ô Phi-ghê là lãnh tụ thanh niên kháng chiến miền Nam nước Pháp dưới thời phát-xít Đức chiếm đóng. Kháng chiến thắng lợi, nhân dân tỉnh Đông Pi-a-rê-nê cử ông làm đại biểu trong Quốc hội Lập hiến. Sau đó, ông trở thành chủ nhiệm tuần báo Tiền phong và Tổng thư ký Liên đoàn Thanh niên Cộng hòa Pháp. Lê-ô Phi-ghê cũng là một ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp.
Cùng các lãnh tụ thanh niên khác như Giăng Mê-rô, Lê-ô Phi-ghê lãnh đạo thanh niên Pháp tích cực đấu tranh cho chính nghĩa và hòa bình. Trên tờ Tiền phong, luôn luôn xuất hiện những bài viết của ông vạch rõ tội lỗi của thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Cùng đó, các bài viết của Lê-ô đề ra nhiệm vụ cho thanh niên Pháp phải ngăn chặn bọn thực dân hung ác và nêu ra các biện pháp đấu tranh. Đề cập về việc phải gắn liền phong trào đòi hòa bình với cuộc đấu tranh chống chiến tranh ở Việt Nam, ông viết: “Cuộc đấu tranh cho hòa bình ở Pháp nếu không đi kèm những hành động cương quyết và cụ thể chống chiến tranh ở Việt Nam thì chỉ là câu nói suông”.
Đầu năm 1950, Lê-ô Phi-ghê sang thăm Việt Nam, để-như lời ông nói: “Tìm đến những nguồn chắc chắn nhất có thể cho dư luận Pháp biết rõ tình hình thực ở Đông Dương, biết rõ tinh thần nhân dân Việt Nam”.
Lê-ô đã đến thăm nhiều cơ quan văn hóa và những xưởng quốc phòng trong rừng sâu. Ông cũng đi thăm các thị trấn, làng mạc. Gặp các nhà báo Việt Nam, ông tuyên bố: “Các bạn hãy tin chắc rằng, những người trước đây từng chiến đấu như các bạn để giải phóng đất nước họ khỏi bọn ác quỷ Hít-le và ngày nay đang đấu tranh để giành độc lập chính trị và kinh tế cho Tổ quốc, những người ấy sẽ gắng sức đấu tranh để các bạn được hưởng hòa bình và tự do”.
Đến dự Đại hội toàn quốc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Đại hội toàn quốc Liên đoàn Thanh niên Việt Nam, Lê-ô Phi-ghê nói lên tất cả ý chí quyết liệt của các bà mẹ, những người vợ và nam, nữ thanh niên Pháp đấu tranh cho hạnh phúc, hy vọng, không những cho chính họ mà còn cả cho phụ nữ và thanh niên Việt Nam. Ông nói: “Chúng ta đấu tranh chống kẻ thù chung… Mai đây, thắng lợi của các bạn sẽ là cái đòn cuối cùng đánh cho chúng quỵ hẳn”.
Lê-ô Phi-ghê đã gặp một số thành viên Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông càng hiểu rõ hơn đường lối kháng chiến, kiến quốc của Việt Nam. Nhân dịp này, ông đề nghị Chính phủ Việt Nam thả một số tù binh Pháp. Vì tinh thần yêu chuộng hòa bình của nhân dân Pháp, Chính phủ Việt Nam đã cho một số tù binh hồi hương. Sau hai tháng lưu lại Việt Nam, về đến Pháp, Lê-ô Phi-ghê liền tổ chức cuộc họp báo ngày 13-7-1950, tại khách sạn Luy-tê-xi-a, Pa-ri. Trong buổi nói chuyện hôm đó, ông bày tỏ cho nhân dân Pháp hiểu rõ sự thật ở Việt Nam, cái sự thật khác hẳn so với những câu chuyện do Chính phủ Pháp đưa ra. Ông nói rõ, sự đoàn kết, nhất trí, khả năng và điều kiện tất thắng của nhân dân Việt Nam. Ông cũng nói lên nguyện vọng của nhân dân Việt Nam mong muốn hòa bình, độc lập, lòng nhân đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam trong việc thả tù binh.
Chính phủ thực dân Pháp không chịu nổi sự thực mà Lê-ô Phi-ghê đưa ra trước nhân dân Pháp. Chúng ra lệnh cho tòa án Péc-pi-nhăng truy tố ông vì đã chủ trương chấm dứt cuộc chiến tranh phi nghĩa. Hành động bỉ ổi của bọn thực dân đã đổ thêm dầu vào đống lửa chống chiến tranh Việt Nam. Thanh niên Pháp, nhân dân Pháp càng sôi sục. Làn sóng phản đối chiến tranh càng dâng cao.
 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp hai người bạn Pháp thân thiết của nhân dân Việt Nam: Hăng-ri Mác-tanh (phải) và Rây-mông Đi-en (trái), ngày 1-9-2004. Ảnh tư liệu
|
Rây-mông Đi-en
Ngày 23-2-1950, được tin có một chuyến tàu hỏa chở đầy vũ khí chuẩn bị đi qua ga Xanh Pi-e đề Co chuyển sang Đông Dương, Rây-mông Đi-en liền huy động các bà mẹ, các bà vợ và tất cả họ hàng thân thích của những binh lính đang chiến đấu hoặc đã chết trận ở Đông Dương ra ga để ngăn cản. Nhân dân thành Tua theo ra rất đông. Đám đông phụ nữ tụ tập ở cuối ga, chỗ quành của đường sắt. Tàu chuyển bánh xình xịch đến gần. Lập tức, khẩu hiệu “Đả đảo chiến tranh ở Việt Nam!” tung lên. Ngay lúc ấy, Rây-mông Đi-en nhảy vào và nằm vắt ngang trên đường sắt. Đoàn tàu tức tốc hãm bánh.
Câu chuyện truyền đi rất nhanh trên khắp nước Pháp. Nhân dân cả nước đều hoan nghênh và hưởng ứng hành động của Rây-mông. Ở Pa-ri, Boóc-đô và nhiều nơi khác, tàu hỏa ngừng chạy, nhà máy nghỉ việc. Công nhân khuân vác các cảng Mác-xây, An-giê, Séc-bua không chịu chuyển vũ khí lên tàu đi Đông Dương.
Chính phủ Pháp bắt giam Rây-mông Đi-en và đưa bà ra kết án. Ra trước tòa, bà vẫn tươi cười, trả lời tự nhiên: “Tôi nằm trên đường sắt để ngăn cản chuyến tàu chở vũ khí đi giết người, vì tôi thù ghét chiến tranh thậm tệ”.
Tất cả những nhân vật dân chủ và tiến bộ trên toàn nước Pháp đều bênh vực Rây-mông. Các luật sư nổi tiếng đều vạch rõ việc trái luật của Chính phủ Pháp trong việc bắt giữ bà, truy tố bà trước tòa án quân sự. Tuy nhiên, Rây-mông Đi-en vẫn bị kết án 1 năm tù. Trước bản án, bà thản nhiên: “Tôi vẫn cứ đấu tranh chống chiến tranh ghê tởm đến cùng”.
Bản án bất nhân ấy càng làm cho nhân dân Pháp phẫn uất. Cuộc đấu tranh cho Rây-mông Đi-en càng thêm quyết liệt. Khẩu hiệu “Thả Rây-mông Đi-en!” đi kèm với “Hòa bình ở Việt Nam!” giăng khắp các đường phố. Mít tinh, biểu tình nổ ra khắp nơi. Nhiều nhân vật có danh tiếng trong khắp các giới nước Pháp ký tên đòi thả bà. Nhân dân thế giới lên tiếng phản đối hành động trơ tráo của Chính phủ Pháp. Trong nhà tù, ngày sinh nhật, Rây-mông Đi-en nhận được thư từ, hoa từ khắp nơi trên thế giới gửi tới.
Cuối cùng, những người yêu chuộng hòa bình đã thắng lợi. Chính phủ Pháp phải thả Rây-mông Đi-en sau 10 tháng giam giữ. Ngày 24-12-1950, Rây-mông ra khỏi nhà tù. Vừa ra khỏi ngưỡng cửa nhà tù, bà liền ký tên hưởng ứng bản hiệu triệu của Hội đồng Hòa bình thế giới đòi cấm vũ khí nguyên tử. Bà tuyên bố: “Trong bất cứ trường hợp nào, tôi luôn luôn đấu tranh cho hòa bình”.
Hăng-ri Mác-tanh
Hăng-ri Mác-tanh sinh năm 1926, tại Rô-de, một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Se. 16 tuổi, ông đã rải truyền đơn kêu gọi nhân dân chống phát-xít Đức. Sau đó, Hăng-ri cầm vũ khí tham gia du kích đánh đuổi giặc khỏi tỉnh Se. Nước Pháp được giải phóng, Hăng-ri tình nguyện tham gia Hải quân Pháp, sang Đông Dương đánh Nhật.
Được điều động sang Việt Nam, nhận ra bộ mặt thật của đội quân viễn chinh Pháp, Hăng-ri Mác-tanh không chịu nhúng tay vào những hành động tàn bạo. Ba lần ông đưa đơn xin giải ngũ. Lo sợ hàng nghìn lính hải quân sẽ theo gương Hăng-ri, Bộ Hải quân Pháp không dám cho ông về mà điều động đến Tu-lông.
Ở Tu-lông, Hăng-ri tự đặt cho mình nhiệm vụ phải giác ngộ binh lính chống lại cuộc chiến tranh vô nhân đạo. Ông phát truyền đơn và tổ chức binh lính cùng nhân dân Pháp đòi: “Chấm dứt chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam!”, “Hồi hương quân đội viễn chinh!”.
Để dập tắt phong trào đấu tranh trong lực lượng hải quân, quân đội Pháp tìm cách bắt giam Hăng-ri Mác-tanh. Chúng cho tay sai xúi giục một sĩ quan hải quân là Anh-buyếc-giê thực hiện một cuộc phá hoại rồi khai là Hăng-ri Mác-tanh có liên quan. Hăng-ri bị đưa ra tòa với lời buộc tội: “Phá hoại và làm nản lòng binh sĩ”.
Trước tòa, Hăng-ri Mác-tanh ung dung tuyên bố: “Tôi không tòng quân để đi đánh đàn bà và trẻ con. Lòng tôi và lương tâm tôi không mặc binh phục... Chúng tôi không phải là bọn đánh thuê mà là những hải quân dân chủ. Làm gì có chuyện bất tuân thượng lệnh khi phải đấu tranh cho một chính phủ phản bội lại quyền lợi của nước Pháp”.
Mặc dù những lời làm chứng đều bênh vực Hăng-ri Mác-tanh, dù Anh-buyếc-giê phản cung không thừa nhận ông liên quan đến vụ phá hoại, dù nhân dân Pháp đấu tranh, Chính phủ Pháp vẫn xử Hăng-ri phải chịu 5 năm tù.
Nhân dân Pháp hiểu rằng, Chính phủ Pháp kết tội Hăng-ri Mác-tanh là để đánh vào phong trào chống chiến tranh ở Việt Nam. Vì thế, họ càng ra sức đấu tranh đòi thả ông khỏi nhà tù và chấm dứt chiến tranh phi nghĩa. Hằng ngày, hàng nghìn bức thư gửi cho Tổng thống và Chính phủ Pháp đòi thả Hăng-ri Mác-tanh. Thư của 7 người lính hải quân thành Tua có những câu rất cương quyết: “Là những cựu binh hải quân, chúng tôi biết rõ những cực hình mà Hăng-ri Mác-tanh phải chịu trong 5 năm tù. Chúng tôi thề đấu tranh mãnh liệt hơn nữa để cứu anh khỏi chết dần chết mòn trong chốn lao tù. Ông Bô-rơ-ga thay mặt các hạ sĩ quan Pháp ở Đông Dương hồi hương viết: “Chúng tôi nguyện cùng sống chết với Hăng-ri Mác-tanh để cứu mạng cho bao nhiêu thanh niên khác khỏi phải gửi xác trên đất Việt Nam”.
Khắp nước Pháp, từ sinh viên, công nhân, thủy thủ đến cả linh mục công giáo… đều tổ chức những cuộc biểu tình, bãi công, bãi khóa, bãi thị để lấy chữ ký vào bản yêu cầu thả Hăng-ri Mác-tanh. Một đoàn kịch lưu động đi khắp nơi diễn những buổi kịch tả gương đấu tranh của ông. Không ngày nào báo chí không có một câu chuyện về Hăng-ri Mác-tanh tại trang đầu. Các ủy ban bảo vệ Hăng-ri Mác-tanh được thành lập khắp nơi. Nhân dân thế giới cũng lên tiếng phản đối kịch liệt hành động phát-xít của Chính phủ Pháp. Tại Đại hội Thanh niên thế giới tổ chức ở Béc-lin, Đức, thanh niên thế giới treo ảnh Hăng-ri Mác-tanh trong phòng họp, vác ảnh ông tuần hành ngoài phố. Các khẩu hiệu: “Thả Hăng-ri Mác-tanh!”, “Hồi hương đạo quân viễn chinh!”, “Hòa bình tại Việt Nam!” được gắn chặt vào nhau trong mọi cuộc đấu tranh.
NGUYỄN THÀNH AN