Năm 14 tuổi, tạm biệt quê hương Việt Nam để tới TP Lezich, Cộng hòa dân chủ (CHDC) Đức học tập, chàng trai Lương Đức mang theo bao hoài bão và ước mơ của tuổi trẻ. Ông kể, thời gian đầu khi mới chỉ học tiếng Đức, cứ tối thứ bảy rảnh rỗi là ông lại cùng bạn bè đến Câu lạc bộ Sĩ quan Nga ở TP Lezich tham gia hoạt động giải trí cộng đồng, trong đó có xem phim. Từ ngỡ ngàng, choáng ngợp trước những cảnh quay trong các tác phẩm điện ảnh Nga, Lương Đức đã bắt đầu định hình ý nghĩ về nghề nghiệp mà mình theo đuổi. Ông đăng ký dự thi và trúng tuyển chuyên ngành quay phim của Trường Đại học Điện ảnh và Vô tuyến truyền hình CHDC Đức.

Cuối năm 1962, trở về nước, Lương Đức được phân công công tác tại Xưởng phim Thời sự tài liệu Việt Nam. Sau hai năm được biệt phái sang Lào dạy lớp quay phim, trở lại xưởng phim, ông được phân công về Đội làm phim khoa học.

Thời điểm Lương Đức về Xưởng phim Thời sự tài liệu Việt Nam thì dòng phim khoa học đã có ở Việt Nam. Ông bảo, người đầu tiên làm phim khoa học ở Việt Nam là đạo diễn Khương Mễ với bộ phim “Một năm Philatop ở Việt Nam”. Sau đó, thể loại phim này cũng được định hình nhưng chưa được hiểu đúng. Những năm 1957-1958, xưởng phim có thêm một vài phim khoa học như: “Làm cho lúa tốt” (đạo diễn Trần Thịnh), “Chống sốt rét”, “Chống đau mắt hột” (đạo diễn Như Ái)... nhưng cũng chỉ là dùng hình ảnh minh họa lại nội dung. Sau này, có những phim tốt hơn như: “Chống xói mòn”, “Ruồi-vật trung gian nguy hiểm”, “Bệnh giun sán” nhưng mang tính tài liệu nhiều hơn khoa học.

Là người đầu tiên của ngành điện ảnh Việt Nam được đào tạo chính quy ở Đông Âu, Lương Đức hiểu rất rõ vai trò của thể loại phim khoa học, cũng như những “khoảng trống” của dòng phim khoa học Việt Nam lúc bấy giờ. “Một trong những lý do khiến dân mình còn nghèo khổ, lạc hậu là khoa học kỹ thuật hạn chế, không có thông tin, kiến thức. Đây là những vấn đề mà phim khoa học có thể làm được. Nhưng phim khoa học của Việt Nam vào những năm đầu còn đơn điệu, nghèo nàn, chưa thoát khỏi cách làm phim thời sự. Người làm phim trở thành công cụ sao chép những quy trình kỹ thuật, những kết quả nghiên cứu một cách máy móc, minh họa... Nói đến phim khoa học, người ta thường chỉ nghĩ đến phim giáo khoa mà không biết sự phong phú, đa dạng của các thể loại phim khoa học khác”, NSND Lương Đức nhớ lại.

leftcenterrightdel

 NSND Lương Đức.

Với niềm đau đáu, trăn trở và cả bầu đam mê, nhiệt huyết, chàng trai trẻ Lương Đức lao vào làm phim khoa học. Theo NSND Lương Đức, phim khoa học là dòng phim dễ làm nhưng khó hay. Dễ là bởi kiến thức thì các nhà khoa học cung cấp. Còn cái khó là làm sao cho lôi cuốn, hấp dẫn. “Điều kiện làm phim khi ấy rất khó khăn, thiếu thốn. Vì không có thiết bị chuyên dùng nào phục vụ cho việc làm phim khoa học ngoài mấy chiếc máy quay phim thời sự, tài liệu; thiết bị chiếu sáng cũng chỉ có vài ba chiếc đèn pha quay thời sự... nên chúng tôi phải xoay xở, tận dụng mọi khả năng kỹ thuật để làm phim, thậm chí “gia công” nhiều cảnh quay để chuyển tải thông điệp của đạo diễn”, NSND Lương Đức nhớ lại.

Để “mềm hóa” phim khoa học và tăng sức hấp dẫn đối với khán giả, ông cố gắng vận dụng các thủ pháp biểu hiện của nhiều loại hình khác nhau từ hoạt hình, ngôn ngữ phim tài liệu đến các tiểu phẩm, kịch, phim truyện... Có phim, ông dùng diễn viên đóng vai; có phim, ông dùng thủ pháp hoạt hình để dẫn dắt câu chuyện. Có phim, ông lại vận dụng cách làm của phim tài liệu, quay người thật, việc thật, hiện trường thật... qua đó giải thích sâu về khoa học. Như phim “Chú ý thuốc trừ sâu”, ông lấy bối cảnh thật tại một hợp tác xã ở Hưng Yên, nơi xuất phát của phong trào lúa xuân, đồng thời còn trực tiếp vào vai anh nông dân bị ngộ độc thuốc trừ sâu...

Bên cạnh đó, Lương Đức còn tìm tòi thử nghiệm các yếu tố về kỹ thuật, tạo hình để đem đến hiệu quả nghệ thuật nhất định cho các bộ phim. Ví như khi làm bộ phim “Cá mè đẻ nhân tạo”, ông cùng đồng nghiệp thể nghiệm một số kỹ xảo như: Mờ chồng, tối dần, sáng dần; dừng hình, mặt nạ di động (kash) để tạo hiệu ứng. Việc quay cuộc sống của cá mè được thực hiện qua bể kính với điều kiện máy động, dùng ánh sáng tạo hình, đi sâu vào chi tiết, dùng các cảnh đặc tả, cận cảnh của điện ảnh để khai thác hiệu ứng thị giác... xen kẽ với hình ảnh quay là hình ảnh con cá được vẽ, bóc lớp cá ra cho khán giả xem cấu tạo. Hay trong phim “Bệnh đạo ôn hại lúa”, để lột tả được bệnh đạo ôn trong tình trạng thiếu máy quay phóng đại, ông bèn mày mò tháo ống kính hiển vi đặt ghế kê lên, tìm cách chiếu sáng ghép vào. Bằng cách quay “gia công” này, phim vẫn đầy đủ thông tin, giúp khán giả thấy rõ sự phát triển của vi sinh vật...

Với cách chuyển tải rất đa dạng, phim khoa học của NSND Lương Đức không chỉ bảo đảm tính khoa học, chính xác mà còn tạo được dấu ấn, thể hiện chất thơ, chất hài hước, hóm hỉnh; mang sắc thái, tiết tấu của điện ảnh hiện đại; khơi gợi niềm tự hào dân tộc... đồng thời, nhiều bộ phim còn đặt ra những vấn đề mang tính dự báo. Có thể minh chứng điều này qua các bộ phim: “Chú ý thuốc trừ sâu”, “Cá mè đẻ nhân tạo”, “Cá trôi Ấn”, “Nói và làm”, “Yên trí không sao”, “Tôi sử dụng ngày công như thế nào”, “Chớ coi thường”, “Năng lượng khí sinh vật”, “Vì tính mạng con người”, “Đất Hạ Long”, “Đất Tổ ngàn xưa”...

Những ai từng làm việc với NSND Lương Đức đều dễ dàng cảm nhận niềm say mê, sự kiên trì mà ông dành cho đứa con tinh thần của mình. Trong vai trò của quản lý xưởng phim, biên kịch, đạo diễn hay quay phim rồi viết lời bình... ông luôn dồn hết tâm sức để nghiên cứu, học hỏi, tìm tòi thể nghiệm nghệ thuật hóa phim khoa học. Hầu như công đoạn sản xuất nào ông cũng đều cố gắng bám sát từ khâu xây dựng kịch bản, quay phim rồi dựng phim. Đa phần ông trực tiếp quay, hoặc nếu có quay phim khác hỗ trợ thì ông đều trao đổi, bàn bạc rất kỹ. Đối với công đoạn dựng phim, ông thường trực tiếp tham gia từ việc chọn cảnh đến nối ghép thứ tự các cảnh, các trường đoạn và tạo dựng bố cục của phim...

Nghệ sĩ Ưu tú Lại Văn Sinh khi nhắc đến người thầy, người đồng nghiệp của mình từng chia sẻ: “Làm việc nhiều năm với anh Lương Đức, tôi nhận thấy ở anh hội tụ rất nhiều tư chất của người làm nghề, đó là sự tỉ mỉ, thận trọng, đam mê và cả sự nhạy cảm về mặt nghệ thuật. Xem phim của anh Lương Đức, người ta có cảm giác đọc một bài văn mà ở đây không có một câu chữ nào thừa. Còn NSND Vũ Lệ Mỹ, người đã đồng hành, chung sức cùng NSND Lương Đức trong rất nhiều bộ phim khoa học và tài liệu, khi nhắc tới ông cũng bày tỏ sự kính trọng và khâm phục bởi trong cảm nhận của bà, NSND Lương Đức như một người thầy mà bà học tập được rất nhiều điều, từ kinh nghiệm làm phim, khả năng tư duy sáng tạo, ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp và một tấm lòng luôn đau đáu, khát khao được cống hiến...

leftcenterrightdel

Cảnh trong phim "Chớ coi thường" của Nghệ sĩ Nhân dân Lương Đức. Ảnh do nhân vật cung cấp

Qua bao thăng trầm của cuộc đời, giờ đây khi đã ngoài bát thập, tình yêu với điện ảnh trong NSND Lương Đức vẫn như thuở ban đầu. Trò chuyện cùng ông trong một ngày đầu thu, nghe ông kể chuyện làm phim lại càng cảm phục hơn tấm lòng của ông dành cho nghệ thuật thứ bảy. Ông vẫn đau đáu khi nhắc tới phim khoa học-một thể loại phim mà ông gắn bó từ thời trai trẻ. “Việc làm phim khoa học ngày nay cũng khác xưa nhiều. Muốn theo kịp trào lưu phát triển của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở mọi lĩnh vực, muốn thoát ra khỏi cách làm xưa cũ, nhạt nhẽo, giáo điều, khô khan, áp đặt, chúng ta phải mạnh dạn bứt phá và thực sự đổi mới tư duy sáng tác. Mà muốn đổi mới trước hết phải nâng cao tính chuyên nghiệp, phải biết cái cũ thế nào, phải nắm được nguyên lý cơ bản của thể loại phim mình làm, phải nắm vững được nền tảng cơ bản thì mới cải tiến và đổi mới được...”, NSND Lương Đức bộc bạch.

NSND Lương Đức sinh năm 1939 trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Phượng Đình, xã Hoằng Anh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc phường Tào Xuyên, TP Thanh Hóa). Hơn nửa thế kỷ gắn bó với điện ảnh, ông đã đoạt nhiều giải thưởng cao quý như: Bông sen Vàng, Bông sen Bạc, Đạo diễn xuất sắc nhất, Quay phim xuất sắc, Cánh diều Bạc; Giải B Liên hoan phim môi trường quốc gia, giải Đặc biệt tại Liên hoan phim quốc tế Moscow. Ông còn vinh dự được trao tặng Huy hiệu Bác Hồ, Huân chương Kháng chiến hạng Ba, Huân chương Lao động hạng Nhất và được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Bài và ảnh: KHÁNH THƯ