Thử thách mang tên “tác nghiệp buồm”

Lên công cụ tìm kiếm Google có thể dễ dàng thấy nhiều bức ảnh về Tàu buồm 286/Lê Quý Đôn. Con tàu như chú thiên nga trắng lộng lẫy, kiều diễm giữa thẳm xanh trời biển. Nếu không thực mục sở thị thì ít ai biết được rằng, để có những cánh buồm căng gió giữa biển khơi, thủy thủ đoàn phải dụng công thế nào trong quá trình tác nghiệp buồm. Và trước hết, họ phải có kiến thức sâu, động tác cơ bản, thuần thục trong quá trình mở, thu buồm và điều khiển tàu chạy bằng buồm.

Boong Tàu buồm 286/Lê Quý Đôn là nơi yêu thích của các thành viên tham gia hải trình lần này. Đó không chỉ đơn giản là nơi thoáng đãng để tập thể dục và ngắm bình minh hay hoàng hôn, mà còn là nơi chứa đựng những thông tin thú vị xoay quanh những cột buồm. Tàu buồm 286/Lê Quý Đôn có 3 mast (cột buồm) kim loại, gồm cột trước, cột giữa và cột sau lái, với độ cao mỗi cột khoảng 42m. Mỗi cột buồm có 5 yard (cành buồm). Tàu có 21 lá buồm, gồm 10 buồm vuông, 9 buồm tam giác và 2 buồm đặc biệt (hay còn gọi là buồm lái). Những ngày đầu, nhiều người “hoa mắt” trước “ma trận” dây buồm được giăng từ các cành buồm xuống chân cột buồm và hai bên mạn tàu. Nhưng tìm hiểu kỹ mới thấy sự khoa học và tinh tế trong cách thiết kế, bố trí dây buồm trên con tàu. Mỗi tầng buồm vuông được điều khiển bằng những sợi dây dù có màu sắc khác nhau, lần lượt từ cành buồm 5 xuống cành buồm 1 tương ứng với các dây màu đen, xanh nước biển, đỏ, xanh lá cây, vàng. Tương tự, các buồm tam giác cũng kết nối với các dây dù được phân biệt bởi những họa tiết có màu sắc khác nhau.

leftcenterrightdel
Huấn luyện leo thang dây để thả buồm trên Tàu buồm 286/Lê Quý Đôn. Ảnh: HOÀNG HÀ

Ngay ngày thứ hai của hải trình, tàu tổ chức huấn luyện tác nghiệp buồm trên khu vực biển Phú Quý (Bình Thuận). Sau khi nhận nhiệm vụ, các thành viên đảm nhiệm công việc leo cột buồm khẩn trương mang đeo dây bảo hiểm với những động tác dứt khoát và chuẩn xác, thoăn thoắt leo “thang dây mạng nhện”, tiếp cận các cành buồm, thận trọng đi trên foot rope (dây chân) như “diễn viên xiếc” để tháo dây buộc buồm, rồi lại hóa thân thành “người nhện” leo thang dây xuống boong tàu, cùng đồng đội hợp lực căng buồm. Sau mỗi nhịp kéo và tiếng lách cách của tời trợ lực, dây căng dần và buồm được mở ra, no gió, đưa tàu băng băng lướt sóng.

Theo quy định, buồm chỉ được sử dụng khi gió lớn hơn cấp 3 và góc đón gió của tàu lớn hơn 60 độ. Tàu có thể chạy bằng buồm với vận tốc 14 hải lý/giờ, ở độ nghiêng không quá 30%. Khi độ nghiêng lớn hơn gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của thủy thủ thì chỉ huy tàu sẽ ra lệnh thu buồm với số lượng cánh nhất định hoặc thu toàn bộ buồm.

Nếu việc thu, mở buồm đòi hỏi sự dụng công và chấp hành những yêu cầu khắt khe, thì việc điều khiển tàu chạy bằng buồm lại là một “nghệ thuật”. Thượng úy Nguyễn Trọng Hiếu, Phó thuyền trưởng Tàu buồm 286/Lê Quý Đôn chia sẻ: Nếu chạy bằng máy để điều khiển tàu đi từ điểm A đến B là một việc làm đơn giản và có thể đi đường thẳng thì chạy bằng buồm sẽ phải đi dích dắc từ A qua C sang D rồi mới đến B. Ngoài ra, việc căn cứ vào hướng gió, cấp gió để tính toán đưa ra quyết định sử dụng bao nhiêu lá buồm trong từng thời điểm khác nhau, hay kết hợp sử dụng buồm và máy như thế nào cũng là một nghệ thuật.

Là người được cử sang Ba Lan huấn luyện, tiếp nhận và đưa Tàu buồm 286/Lê Quý Đôn đi suốt 122 ngày trên hành trình 18.140 hải lý về Việt Nam, rồi gắn bó với con tàu từ đó đến nay, Trưởng ngành cơ điện của tàu, Đại úy Phan Thành Huy đã từng đối diện với nhiều khó khăn khi tác nghiệp buồm. Anh chia sẻ: “Khó khăn lớn nhất khi đang sử dụng buồm là hướng gió đột nhiên thay đổi. Khi đó tàu phải khởi động máy để giữ ổn định và an toàn, đồng thời phải huy động cao nhất quân số lên thao tác buồm”. Tiếp đó, phải căn cứ vào hướng gió để thao tác chuyển hướng buồm vuông cho phù hợp trong dải 30 độ sang phải hoặc sang trái, còn buồm tam giác phải thu lại toàn bộ sau đó mới có thể kéo theo chiều ngược lại. Để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người và trang bị, cùng với phân công số lượng người thao tác trên một dây buồm hợp lý, còn phải sử dụng hiệu quả tời trợ lực, đồng thời chú ý kết nối áo bảo hiểm với tàu trong quá trình kéo dây buồm...

Đo sao để định vị tàu

Trên biển, trăng như lên sớm hơn. Khi trăng đã vằng vặc sáng trên nền trời xanh thẫm và tãi ánh sáng trên mặt biển bao la thì phía chân trời vẫn hắt lên những tia đỏ thẫm. Một công việc thường chỉ được thầy và trò chuyên ngành hàng hải của Học viện Hải quân thực hành trên bờ biển Nha Trang, nay diễn ra giữa bao la trời biển.

Boong thượng của Tàu buồm 286/Lê Quý Đôn được giảng viên và học viên chuyên ngành hàng hải lớp KH33B chọn làm nơi tác nghiệp. Các học viên Võ Phú An và Võ Minh Tuấn tiến hành kiểm tra máy đo Sextant (hay còn gọi là máy 1/6). Trong khi đó, học viên Ngô Tiến Đạt kiểm tra đồng hồ thiên văn, còn các học viên Nguyễn Quân, Nguyễn Đăng Lê Hòa chuẩn bị giấy tính thiên văn, lịch thiên văn, các loại bảng tính, bút chì, tẩy, thước song song, com pa, sẵn sàng tác nghiệp.

“Tối nay, các học viên chuyên ngành hàng hải sẽ tiến hành giải bài toán 2 sao để xác định vị trí của tàu. Đây là một trong những phương pháp xác định vị trí tàu bằng thiên văn thường được sử dụng trong hàng hải nói chung và hàng hải quân sự nói riêng”, Thượng úy Lê Hoài An, giảng viên Khoa Hàng hải (Học viện Hải quân) giới thiệu.

Sau khi hoàn thành công tác chuẩn bị, Võ Phú An và Võ Minh Tuấn tiến hành nhận dạng các ngôi sao cần đo đạc nằm ở hướng nam, phía trước mũi tàu. Đó là sao Alpha Đại Khuyển ở phía trái và sao Alpha Ngự Phu ở bên phải.

“18 giờ 45 phút, tiến hành đo độ cao 2 ngôi sao”, Ngô Tiến Đạt hô khẩu lệnh đồng thời xác định mốc thời gian đo.

Sau một khoảng thời gian đo đạc, Võ Phú An đưa ra con số 52 độ 21,8 phút; trong khi đó, thông số mà Võ Minh Tuấn đo được là 33 độ 21,2 phút.

Sau khi hiệu chỉnh độ cao mà hai máy đo Sextant vừa thu được, nhóm học viên sử dụng các trang bị tiến hành giải bài toán 2 sao. Kết quả cuối cùng được đưa ra là tàu đang ở 8 độ 41,5 phút vĩ độ Bắc, 107 độ 58,5 phút kinh độ Đông. Công việc tiếp theo là ghi nhật ký hàng hải và đánh giá độ chính xác của vị trí tàu vừa xác định. So với vị trí tàu dự tính thì vị trí tàu được xác định thông qua giải bài toán 2 sao có giá trị độ sai (phương sai-khoảng cách sai) là: 330 độ-0,7 hải lý. Đây là kết quả tương đối chính xác.

Phương pháp giải bài toán 2 sao để xác định vị trí tàu thường được áp dụng khi đi biển xa không có mục tiêu địa văn và không thể sử dụng định vị GPS. Điều đặc biệt, đây là phương pháp chỉ được áp dụng trong thời điểm hoàng hôn hoặc bình minh, vì đây là lúc có thể nhìn thấy đường chân trời và là lúc sao vừa lên. Khi tàu đi về hướng nam, có thể đo sao Đại Khuyển, Ngự Phu, Nam Thập Tự, còn khi đi về hướng bắc có thể đo sao Bắc Cực nằm trong chòm sao Tiểu Hùng Tinh, hoặc đo các ngôi sao trong chòm sao Đại Hùng Tinh để xác định vị trí tàu.

Khi sử dụng phương pháp giải bài toán 2 sao để xác định vị trí tàu thì độ lắc của tàu khiến việc xác định đường chân trời và vị trí các sao tương đối khó khăn. Do vậy, theo Thượng sĩ Võ Phú An, phải tiến hành đo nhiều lần để từ đó lấy kết quả trung bình nhằm tăng độ chính xác. Còn Thượng sĩ Võ Minh Tuấn thì chia sẻ, phải quan sát kỹ, nhận biết chính xác những ngôi sao cần đo thông qua độ sáng của nó.

Ngoài ra, sai số của dụng cụ đo; kỹ năng của người thực hành đo; hay thời gian giải bài toán lâu, là những khó khăn tác động đến phương pháp này. Để hóa giải những khó khăn ấy, đòi hỏi người sử dụng máy đo Sextant phải xác định đúng lượng hiệu chỉnh; thực hành thường xuyên để nâng cao kỹ năng đo; ứng dụng hiệu quả phần mềm tính toán trên smartphone hoặc máy tính để rút ngắn thời gian giải bài toán.

Là phương pháp cho kết quả không chính xác như phương pháp địa văn hay sử dụng định vị GPS, đồng thời không thể thực hiện khi trời mưa, nhiều mây, sương mù dày, tầm nhìn xa hạn chế... nhưng giải bài toán 2 sao để xác định vị trí tàu là phương pháp quan trọng, hữu ích, là “cứu cánh” cho kíp tàu trong những tình huống khó khăn. Bởi thế, đây là yêu cầu mà Tổ chức Hàng hải thế giới coi là nội dung bắt buộc trong đào tạo sĩ quan hàng hải. Đối với Hải quân nhân dân Việt Nam, khi thi thuyền trưởng giỏi luôn có nội dung tác nghiệp tổng hợp, trong đó có bài toán xác định vị trí tàu bằng thiên văn.

Từng có nhiều năm gắn bó với những con tàu hải quân, Đại tá Nguyễn Đức Nam, Phó giám đốc Học viện Hải quân, Trưởng đoàn công tác trên Tàu buồm 286/Lê Quý Đôn lần này cho biết: Những năm chưa có GPS, các tàu hải quân ra Trường Sa thường phải dùng phương pháp giải bài toán 2 sao để xác định vị trí tàu. Hiện nay, đây vẫn là phương pháp được coi trọng, bởi khi tác chiến trên biển, không có mục tiêu địa văn và GPS bị vô hiệu hóa thì phải xác định vị trí tàu bằng các phương pháp thiên văn, trong đó có phương pháp giải bài toán 2 sao. Do đó, đây là nội dung luôn được Học viện Hải quân coi trọng trong quá trình đào tạo học viên sĩ quan.

Ghi chép của PHẠM HOÀNG HÀ