34 tuổi trở thành phó giáo sư trẻ nhất trong lịch sử Học viện Kỹ thuật Quân sự... Nhưng điều ấn tượng nhất về Trung tá, PGS, TS Trịnh Lê Hùng lại là sự khiêm tốn, giản dị, cầu thị và tâm huyết của anh với ngành khoa học địa hình quân sự.

19 năm trước, trong một đêm mùa đông buốt giá năm 2000, tôi (khi ấy là Phó đại đội trưởng về chính trị Đại đội 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 36, Sư đoàn 308, Quân đoàn 1) đi kiểm tra bộ đội. Đã 12 giờ đêm mà ánh đèn pin vẫn nhấp nháy ở một góc giường. Tôi tiến về nơi phát ra ánh nhấp nháy đó với suy nghĩ “bắt quả tang” anh chàng thức khuya viết thư cho bạn gái. Nhưng không! Anh lính binh nhì với vầng trán rộng, ánh mắt đen láy ngời lên trong đêm đông đang say sưa đọc cuốn sách toán cao cấp khiến tôi sững lại...

Và 19 năm sau, khi đang lướt web, thấy dòng tít “Phó giáo sư trẻ nhất của quân đội” trên Báo Tuổi Trẻ, tôi gặp lại vầng trán và đôi mắt thông minh ấy. Thời kỳ 4.0, không khó để tôi kết nối với Trịnh Lê Hùng. Nhắn anh qua ứng dụng Facebook Messenger, chỉ ít phút sau đã thấy anh nhắn lại: “Em chào anh. Mời anh đến trường em chơi ạ”.

leftcenterrightdel
Trung tá Trịnh Lê Hùng

Trong không gian thoáng đãng trên tầng 25 tòa nhà S1 của Học viện Kỹ thuật Quân sự, Hùng vẫn ngại ngùng nói về bản thân. Anh nói: “Em rất may mắn khi năm 2008 tốt nghiệp đại học Trường Đại học Tổng hợp Trắc địa-Bản đồ Moscow, về nước được nhận công tác tại Học viện Kỹ thuật Quân sự. Trường em có rất nhiều thầy là giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học đầu ngành. Những gì em đạt được còn rất nhỏ bé so với các thầy, các anh lớp trước nên đề nghị anh đừng viết gì về em”.

Tôi đành gợi chuyện về quá trình hiện đại hóa quân đội. Ở đề tài này thì Hùng sôi nổi hẳn. Hiện anh là Chủ nhiệm Bộ môn Trắc địa-Bản đồ thuộc Viện Kỹ thuật công trình đặc biệt. Bộ môn đang được học viện giao nhiệm vụ chuẩn bị để thời gian tới đào tạo kỹ sư địa hình quân sự, một chuyên ngành mới, sử dụng, phát triển trên cơ sở hạ tầng của khoa học thông tin và tin học vào giải quyết các vấn đề về khoa học Trái Đất, phục vụ đắc lực quá trình đưa Quân đội ta tiến lên hiện đại. Kỹ sư học chuyên ngành này ra trường sẽ bảo đảm hiện đại hóa công tác trinh sát địa hình quân sự ở các đơn vị sẵn sàng chiến đấu... Chuẩn bị cho nhiệm vụ đào tạo mới, toàn thể cán bộ, giảng viên trong bộ môn của Hùng đang say sưa nghiên cứu, xây dựng, thiết kế giáo trình, bài giảng. Ngày nghỉ nhưng cán bộ,

giảng viên đều đến cơ quan tự nghiên cứu, đọc tài liệu. Riêng Hùng, ngoài nhiệm vụ chủ nhiệm bộ môn, anh cũng hết mình trong nghiên cứu khoa học và tham gia đào tạo đại học, sau đại học cho các trường đại học dân sự, như: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu khoa học của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học Mỏ-Địa chất... Tính đến nay, anh đã có gần 70 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí uy tín trong nước và quốc tế, trong đó, hàng chục bài báo trong danh mục ISI, Scopus.

Ngành địa-tin học là một ngành còn rất mới ở Việt Nam, cả trong hoạt động quân sự lẫn dân sự, nhưng ứng dụng của nó rất thiết thực. Hùng cho biết, những đề tài khoa học cấp bộ, cấp nhà nước mà anh tham gia đều được ứng dụng vào thực tiễn ngay sau khi nghiệm thu. Hoặc có những đề tài nhỏ do anh làm chủ nhiệm, như “Xử lý và ứng dụng ảnh viễn thám hồng ngoại nhiệt” được ngành tài nguyên-môi trường ứng dụng ngay vào phát hiện các sự cố hoặc giám sát môi trường. Vừa qua, việc phát hiện cháy ngầm ở khu vực mỏ than Khánh Hòa (Thái Nguyên) hay việc giám sát nhiệt độ bề mặt đô thị, công tác giám sát hạn hán, cháy rừng ở nhiều địa phương đều áp dụng những giải pháp công nghệ của đề tài này.

“Ứng dụng của ngành địa-tin học trong các hoạt động dân sự đang rất cấp thiết nhưng ưu tiên của chúng em là xây dựng chuyên ngành địa hình quân sự hiện đại, theo kịp trình độ các nước tiên tiến. Là “dân kỹ thuật” nhưng cả bộ môn đều dốc sức nghiên cứu nắm vững Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, đặc biệt là chiến lược quân sự, chiến lược quốc phòng của Đảng, Nhà nước làm cơ sở cho việc khai thác công nghệ vũ trụ phục vụ các hoạt động của quân đội, như: Trinh sát điện tử, tham gia cứu hộ-cứu nạn... Trước mắt, phải ứng dụng thành tựu Cách mạng công nghiệp 4.0 vào phục vụ nhiệm vụ của một số quân chủng, binh chủng đang tiến thẳng lên hiện đại, như: Phòng không-Không quân, hải quân...”, Hùng tâm sự. Khoa học-công nghệ thế giới đang tiến như vũ bão, bởi thế mà tốc độ và khối lượng công việc do Hùng và đồng chí, đồng đội trong bộ môn tự đặt ra cũng rất... khổng lồ. Chưa kể, anh đang là thành viên chính tham gia biên soạn Bách khoa toàn thư (quyển 6-Địa lý học); đang hướng dẫn 2 nghiên cứu sinh, 18 học viên cao học. Anh cũng là tác giả của hai giáo trình đại học “Cơ sở viễn thám”, “Ứng dụng viễn thám trong nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên và giám sát môi trường” và hiện đang hoàn thiện hai giáo trình cao học cho ngành khoa học Trái Đất.

Tôi nhắc lại những kỷ niệm 19 năm về trước ở vùng rừng núi Lương Sơn (Hòa Bình), Binh nhì Trịnh Lê Hùng khi đó chưa biết một từ tiếng Nga nào. Năm 2002, được Học viện Kỹ thuật Quân sự chọn cử đi Nga du học, Hùng cũng chỉ dự khóa tiếng Nga 3 tháng tại Đoàn 871. Sang Nga, thời gian đầu vẫn “đọc-nghe lõm bõm”, Hùng đã trải qua những tháng ngày thức khuya, dậy sớm để học tiếng Nga với một ý chí mạnh mẽ và bền bỉ. Đến mức chỉ sau một năm trên nước Nga, từ một sinh viên “đọc-nghe lõm bõm”, anh vươn lên thành sinh viên xuất sắc, được chọn vào đội tuyển Olympic Toán quốc tế của nhà trường. Thông thạo tiếng Nga rồi, Hùng lại âm thầm tự học tiếng Anh vì anh biết đó là con đường duy nhất để hội nhập sâu rộng với nền khoa học thế giới... Có thể nói, khí chất trầm tính cùng sự ít nói của Trịnh Lê Hùng hoàn toàn trái ngược với những chuyển động không ngừng trong tư duy học tập, nghiên cứu khoa học của anh.

Sẽ là thiếu sót nếu như bài viết này không tiết lộ chút ít về ý chí và nghị lực của Trịnh Lê Hùng. Sinh ra và lớn lên tại một xã miền núi của huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa; bố là sĩ quan quân đội đóng quân ở tận Tây Nguyên, mẹ là nông dân. Từ nhỏ, Hùng đã thấm thía đói nghèo với những tháng ngày khoai, sắn trừ bữa, nỗi vất vả nhọc nhằn của mẹ và sự thiếu vắng tình cảm của người cha do mỗi năm chỉ một vài lần về phép. Năm Hùng lên 6 tuổi (1988), cậu em trai kế sau Hùng đã mất do ngộ độc sắn. Bố Hùng xin nghỉ hưu khi chưa đầy 40 tuổi để về động viên vợ con vượt qua cú sốc và chia sẻ gánh nặng kinh tế gia đình. Dù vậy, ông giữ nguyên vẹn tình yêu với màu xanh áo lính, thường xuyên dạy dỗ các con “quân đội là trường học lớn”. Năm 2000, thi đỗ hai trường đại học uy tín nhưng Hùng đã chọn nhập ngũ vào Học viện Kỹ thuật Quân sự. Người em trai (sinh năm 1990) của Hùng, sau khi tốt nghiệp loại xuất sắc Trường Đại học Kinh tế quốc dân cũng thi và trúng tuyển vào làm việc tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (MB). Những thành tích mà hai người con lập được trong xây dựng quân đội luôn khiến người cha tự hào. Trịnh Lê Hùng nói rằng, đó chính là nguồn động lực tinh thần mạnh mẽ nhất để anh vượt qua những nhiệm vụ nặng nề tưởng như rất khó vượt qua.

Hiện đại hóa quân đội là một sự nghiệp to lớn, rất cần sự “vượt qua chính mình” từ những trí thức trẻ trong quân đội như Trung tá, PGS, TS Trịnh Lê Hùng.

Bài và ảnh: LỘC THƯỢNG