Danh họa tự học

“Guernica” được hưởng những vinh dự đặc biệt. Một trong những vinh dự kỳ diệu đó là 3 năm nay, nó được vinh danh ở nhiều nơi trên thế giới như một sự kiện nhân văn xúc động khó tả. Năm 2017, đất nước Tây Ban Nha tổ chức kỷ niệm 80 năm ra đời bức tranh, niềm tự hào không chỉ của xứ sở đấu bò tót. Năm 2018, Bảo tàng quốc gia Picasso-Paris của Pháp mở cuộc triển lãm có một không hai: Triển lãm một bức tranh thôi-triển lãm Guernica mà không có “Guernica”. Năm nay, 2019, giới nghiên cứu xã hội, văn hóa và lịch sử khắp nơi tổ chức tri ân nó, tạo nên dấu ấn bàng hoàng về cuộc nội chiến kỳ lạ và đáng nghiền ngẫm bậc nhất trong lịch sử nhân loại.

leftcenterrightdel
Danh họa Pablo Picasso. Ảnh tư liệu

Picasso là Balzac trong hội họa. Picasso cũng là Leonardo da Vinci thời hiện đại. Con nhà nòi, ông si mê vẽ từ nhỏ, học hành đến nơi đến chốn. Vẽ hình, sáng tác tranh từ khi còn nhỏ tuổi, ông theo đuổi hội họa không chỉ như một nghề mà hơn thế, như một nghiệp. Ông mê mải khám phá và tiếp thu những cái hay nhất của nghệ thuật dân gian, không những của quê cha đất tổ mà của toàn thế giới. Ông hết sức yêu thích và trân trọng mặt nạ đủ kiểu của người dân châu Phi. Ông tìm hiểu kỹ càng hầu như tất cả các trường phái hội họa và liên tục thử vận dụng chúng vào sáng tác của mình. Đương nhiên không phải để rập khuôn mà để phát minh ra những cái mới.

Chuyện tự học này là đáng kinh ngạc. Chẳng hạn, từ năm 1904 (thời điểm ông định cư hẳn ở Pháp) tới 1972, ông làm được 2.000 bức khảm đồng giá trị. Chưa kể hàng nghìn bức phác thảo về mọi mặt đời sống. Tác phẩm nhiều loại hình của ông, vẽ, đồ gốm, điêu khắc, khảm, tranh, văn học… là khổng lồ và không dễ khai thác trọn vẹn. Nguyên bộ phận mênh mông những tác phẩm chưa kịp công bố đã khiến nhiều nhà nghiên cứu choáng ngợp. Trong đó có loạt tác phẩm không khác những trang nhật ký sống động của một trái tim nhân hậu sáng suốt và một khối óc minh mẫn, nhân bản lạ thường. Cho nên, không phải bỗng dưng từ khi mới vào nghề, ông đã phản ánh tâm tư, nguyện vọng của dân thường, những người thấp cổ bé họng. Sự thương xót, đồng cảm, kính phục của ông đối với họ mau chóng được nhận chân. Lương thiện và hạnh phúc cho nhân dân, chống áp bức, bóc lột, bất công và chiến tranh phi nghĩa, bảo vệ quyền sống bình đẳng và bác ái, cũng như tự do và hòa bình-hình ảnh chim câu ông vẽ năm 1949 đã trở thành biểu tượng của hòa bình thế giới, những giá trị ấy lồng lộng trong các tác phẩm của Picasso. Tác phẩm phong phú đa dạng về thể loại và loại hình của ông, như đã đề cập, chiếm lĩnh công chúng của nhiều ngôn ngữ, phong tục và lãnh thổ. Từ năm 1920, ông đã nổi danh là một nghệ sĩ đặc sắc và có ảnh hưởng bậc nhất trên thế giới. Ảnh hưởng này cho tới hôm nay vẫn là tuyệt đỉnh và chưa nghệ sĩ nào đuổi kịp.

Lên án chiến tranh phi nghĩa bằng tranh

Trong khi ở Pháp, ông lăn mình vào nghệ thuật phục vụ nhân loại. Đầu năm 1937, Chính phủ Tây Ban Nha đặt hàng Picasso một bức tranh lớn để trưng bày ở khu vực Tây Ban Nha tại Hội chợ triển lãm quốc tế Paris. Picasso phân vân nhưng cuối cùng vẫn nhận lời. Ông đang khắc họa bức tranh đời sống thường nhật của người dân Tây Ban Nha thì một sự cố hy hữu diễn ra khiến ông gần như suy sụp. Ấy là ngày 26-4-1937, thành phố nhỏ Guernica bất ngờ bị 41 máy bay của Hitler và 13 máy bay của phát xít Italy ném bom có tính hủy diệt. Hết bom sát thương lại đến bom gây cháy. Xen giữa là xả súng máy vào dân thường. Hai phần ba thành phố chìm trong biển lửa. Ba phần tư thành phố hầu như bị san phẳng. Gần 2.000 người trong số 7.000 dân của thành phố bị thương vong. Franco lên tiếng vu khống lực lượng cộng hòa, rằng khi rời khỏi Guernica, họ đã phóng hỏa và xả súng vào nhân dân...

Hai ngày sau thảm họa diệt chủng ấy, Picasso biết sự thật qua thư của gia đình, bạn hữu gửi sang và qua các báo của Pháp… Sự thật là Franco quyết tiêu diệt bằng được một lực lượng cộng hòa lớn đang quy tụ về Guernica. Hitler thì dùng vụ đó để thử nghiệm loại bom gây cháy mà y sẽ sử dụng sau này. Bản chất vô nhân đạo của cuộc công kích Guernica đã lộ rõ.

Picasso quyết định đưa vụ thảm sát ấy lên bức tranh Chính phủ Tây Ban Nha đặt hàng. Từ ngày 1-5-1937, các phác thảo nối nhau ra đời, bà Dora Maar (1907-1997), nhiếp ảnh gia và bạn gái bấy giờ của Picasso hằng ngày chụp lại cảnh ông làm việc với các phác thảo ấy. Ông nghiên cứu chúng, chỉnh sửa và nâng cao dần, theo hệ thống logic nội tại của chủ đề. Hoàn chỉnh bố cục cùng nhân vật và ý tưởng trung tâm xong rồi, ông chuyển sang các nhân vật và ý tưởng phụ. Cuối cùng, ông dành 12 ngày để thể hiện bức tranh được đặt tên là “Guernica”.

leftcenterrightdel
Bức tranh “Guernica” của Pablo Picasso.

Bức tranh vào hạng lớn (349,3cm x 776,6cm, khoảng 27m2) kiểu tranh tường hiện đại, “Guernica” kết hợp nhuần nhuyễn nghệ thuật cổ điển và hiện đại. Bức tranh gồm 7 khối hình, đây là dư âm ấm lòng của chủ nghĩa lập thể (1907-1924) mà Picasso là một đồng sáng lập-sắp xếp theo hình kim tự tháp-đặc trưng của phong cách hội họa cổ điển về đề tài lịch sử. Thoạt nhìn tưởng rối rắm, khó hiểu. Thực tế, khi người xem chú ý đủ độ sẽ nhận rõ những chân dung đầy sắc thái. Hình ảnh những con vật và đồ vật được cách điệu diệu nghệ, gây ấn tượng mạnh mẽ. Vị trí tưởng ngẫu nhiên của các hình khối nhỏ-phương thức đặc thù của chủ nghĩa lập thể-trong tổng thể lớn cuối cùng vẫn gợi nên chuẩn xác những điều mà nghệ sĩ muốn thổ lộ. “Guernica” là tiếng nói đanh thép chống chiến tranh phi nghĩa, chống bạo lực phản lại nhân dân, chống phát xít, chống tập đoàn độc tài Franco, bảo vệ hòa bình và quyền sống của con người. Nhân vật trung tâm của bức tranh là con ngựa-biểu tượng của nhân dân Tây Ban Nha và con bò tót-biểu tượng sức mạnh của nhân dân bị chuyển thành bạo lực phi nghĩa. Bạo lực gian trá này đã gây cho nhân dân những đòn chí tử. Hậu quả là đau khổ ngút trời mà người dân phải gánh chịu: Phía trái bức tranh, một phụ nữ bế đứa con đã bị giết chết, gào khóc thê thảm, ngước nhìn con bò tót và trời cao. Trên ấy là bóng chim bồ câu gần như rã cánh. Cạnh chị là người chiến sĩ thất trận, thân bị nghiền nát thành nhiều mảnh, một bàn tay cầm vũ khí tan tành… Bên phải bức tranh là 3 phụ nữ, thể hiện những tâm trạng thời sự. Một khóc than tuyệt vọng nền hòa bình đang hấp hối. Một chạy về phía tây, phía con bò tót để ngăn chặn hay khuyên nhủ (?). Một có lẽ vẫn an toàn trong nhà mình, nhô người ra ngoài, giơ cao cây đèn dầu để nhìn cho rõ, để lý giải… Ngoài hình bóng chim bồ câu có vẻ hư ảo, Picasso còn cố ý vẽ bông hoa duy nhất mọc bên trên vũ khí đã nát tan. Đó là hy vọng chưa mất. Bên trên con ngựa là một con mắt hay ngọn đèn điện: Mọi chuyện sẽ được lịch sử soi sáng và ghi lại, chỉ khoa học hoặc kiến thức mới là chìa khóa hóa giải mọi rắc rối, mở đường cho tiến bộ mãi mãi. Một danh tác luận đề thâm trầm và chí lý!

Sức sống “Guernica”

“Guernica” được hoan nghênh ngay tại Hội chợ triển lãm quốc tế Paris, tháng 9-1937. Sau đó, đến hết năm 1939, bức tranh được trình bày lưu động ở nhiều nước châu Âu và Hoa Kỳ. Tiếp sau, theo nguyện vọng của Picasso, nó được trưng bày ở Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại Mỹ. Và trở về Tây Ban Nha (khi chế độ Franco sụp đổ năm 1975) vào tháng 10-1981. Từ năm 1992, nó chuyển từ Bảo tàng Prado sang Bảo tàng quốc gia Tây Ban Nha Reina Sofia khi bảo tàng này khánh thành. Từ năm 1985, một phiên bản của nó, do gia đình tỷ phú dầu mỏ Mỹ Nelson Rockefeller hiến tặng, treo ở lối vào trụ sở Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, New York. Năm 2003, khi Chính phủ Mỹ tìm kiếm sự đồng thuận của Liên hợp quốc với cuộc chiến tranh mà họ gây ra ở Iraq, bức tranh bị che bởi một tấm vải xanh da trời…

80 năm qua, bức tranh liên tục được sao chụp và làm phiên bản mới. Cho nên mới có triển lãm Guernica mà không có “Guernica”. Ở triển lãm này, lần đầu tiên quá trình thai nghén tác phẩm được trưng bày cụ thể. Kèm đó là chân dung to lớn của Dora Maar, ngụ ý rằng “Guernica” thực chất là tác phẩm của đôi bạn Picasso-Dora Maar. Một chi tiết khiến chúng ta giật mình: Picasso, một bậc thầy về màu, chỉ dùng đen trắng cho “Guernica”. Phần để tỏ ý trân trọng công lao của Dora Maar. Phần để tranh dễ chụp lại. Phần nữa để cảm ơn báo chí Pháp, tháng 4-1937 đã cho ông biết sự thật vụ ném bom Guernica, điều kiện tiên quyết để ông làm nên một tác phẩm bất tử. 

NHẬT NGUYỄN