Khi tôi 6 tuổi, cha tôi, một cán bộ xã, qua đời. Cha gieo vào lòng tôi niềm say sách. Đôi khi được mẹ cho ít tiền, tôi thường dành mua sách cả. Đầu tiên là bộ Lịch sử văn học Nga-Xô viết của Giáo sư Hoàng Xuân Nhị. Tiếp đến là “Sông Đông êm đềm” của Mikhail A.Sholokhov. Đến với tôi, sau “Truyện ngắn Puskin”, “Dubrovsky” và “Người con gái viên đại úy” của Alexandre Puskin, là “Một anh hùng thời đại” của Mikhail Lermontov. Đất nước xa xôi kia gửi mãi cho tôi những món quà nức lòng, “Thép đã tôi thế đấy” của Nikolai Ostrovsky, truyện ngắn và kịch của Anton Chekhov…, đặc biệt là “Chiến tranh và hòa bình”, “Anna Karenina”, “Phục sinh” của Lev Tolstoy vĩ đại… Chưa kể “Taras Bunba” của Nicolas Gogol, “Cha và con” của Ivan Tourgueniev hoặc “Bông hồng vàng” của Konstantin Paustovsky…
Đã hẳn, tôi đọc nhiều sách của Việt Nam và nhiều nước khác. Nhưng bấy giờ sách, phim, bài hát Liên Xô là nhiều nhất và hấp dẫn hơn cả. “Bài ca thanh niên sôi nổi”, “Kachiusa”, “Cây bạch dương”, “Chiều Mạc Tư Khoa”… hút hồn chẳng kém gì quan họ hay chèo cổ. Chúng tôi thật sự hạnh phúc mỗi lần ra sân bãi xem phim Liên Xô, “Bài ca người lính”, “Người thứ bốn mốt”, “Khi đàn sếu bay qua”, “Tiểu thư Mê-ri”, “Phục sinh”, “Số phận con người”, “Đất vỡ hoang”, “Con đường đau khổ”,... Tôi vẫn chỉ loanh quanh ăn học ở quê nhà, nhưng như được mời đi du lịch khắp nơi trên đất nước Xô viết mà tôi càng ngày càng thấy tươi đẹp, thân thương, gần gũi như trường mình, đồng ruộng và làng xóm mình.
    |
 |
Nicolay Rubtsov. Ảnh tư liệu |
Hóa ra, ở đâu cũng vậy, đa phần người thường đều tốt bụng, chịu thương chịu khó. Họ làm nên tất cả, mang lại tất cả. Văn hóa chính là họ. Văn nghệ khởi nguồn từ họ và quay lại ca ngợi họ, đấu tranh đòi cho họ quyền được sống và được tôn trọng. Tôi vẫn nghĩ chính họ sản xuất cho tôi xem những bộ phim khiến bao người rơi lệ. Chẳng hạn, “Khi đàn sếu bay qua”, 1957. Phim lên án thấm thía chiến tranh phi nghĩa qua tình yêu trớ trêu của một đôi bạn trẻ... Bộ phim giành Giải Cành cọ vàng năm 1958. Đây là Cành cọ vàng duy nhất của điện ảnh Liên Xô (trước đây). Nó là một trong ba phim đoạt Cành cọ vàng được xem nhiều nhất. Riêng ở Pháp là gần 6 triệu lượt khán giả. Những năm ấy, tôi đã thích nhiều bài hát Nga-Liên Xô. Có những câu ca cứ trở đi trở lại mãi trong lòng: Giờ này anh ở đâu, hỡi người bạn cũ cùng binh đoàn/ Đã dấn bước cùng nhau bao dặm đường xa/ Nếu giờ này, bạn hiền còn thiếu một gia đình/ Xin bạn đừng ngại ngần về xóm thôn tôi/ Miền đồng quê phì nhiêu, nông trường lời hát hòa êm đềm/ Có nhiều cô đẹp như khúc ca ban chiều.
Dạo ấy, bộ Văn học Nga Xô viết của Hoàng Xuân Nhị là cẩm nang cho tôi khám phá nền văn học hàng đầu của nhân loại. Nền văn học mà đạo đức và đạo lý hừng hực như lò than khổng lồ, thiêu đốt và sưởi ấm, làm tê liệt và truyền sức mạnh Phù Đổng. Tôi đặc biệt xúc động trước cuộc đời bi thảm và tác phẩm cao sang hiếm thấy của A.Puskin. Một nhà văn từng đặt câu hỏi: “Hỏi ai là nhà văn Nga lớn nhất, người ta sẽ phân vân giữa Lev Tolstoy và Dostoevsky. Nhưng hỏi ai là biểu tượng của tâm hồn Nga, mọi người nhất trí tức thì Puskin”. Một thời gian dài, tôi cho ông là thi sĩ hay nhất của nhân loại. Chưa ai bày tỏ tự nhiên đến thế, như tâm sự thông thường, đúng luật tâm hồn và đúng luật nghệ thuật, chấn động tuyệt đỉnh, những tâm trạng điển hình và không có tuổi. Đến nay tôi vẫn nhớ thơ của ông, từ sách của Hoàng Xuân Nhị, ví như áng thơ sau: “Cuộc vui đã tắt của những năm điên cuồng/ Như một dư âm khó chịu đè nặng tôi/ Vì như rượu hồ đào, nỗi buồn quá khứ/ Càng lâu năm càng trỗi sức sống/ Đường tôi đi ảm đạm, biển toan nổi sóng/ Báo cho tôi những sầu và khổ/ Nhưng hỡi các bạn, tôi chẳng muốn chết đâu/ Tôi muốn sống để suy nghĩ để thương đau/ Vì tôi biết thế nào cũng có khoái lạc/ Giữa đau buồn, lo âu cảnh sống rộn ràng/ Rồi tôi lại đắm say giai điệu/ Lại rơi lệ trong cơn tùy hứng/ Và có thể vào buổi suy tàn/ Tình yêu sẽ sáng rực nụ cười vĩnh biệt”.
Maxim Gorky là đại biểu văn nghệ sĩ xuất thân dân thường nghèo khổ. Tôi sửng sốt trước một chi tiết trong “Những trường đại học của tôi” của ông: Đang đọc một truyện ngắn của văn hào Pháp Gustave Flaubert, ông soi trang sách lên, để xem trong ấy có phép màu nào khiến ông xúc động đến vậy. “Thép đã tôi thế đấy” của Nikolai Ostrovsky, tiêu biểu cho các tầng lớp thanh niên trưởng thành sau Cách mạng Tháng Mười, là sách gối đầu giường của nhiều thế hệ người Việt. Họ nhớ mãi của ông câu đẹp bậc nhất này: “Cái quý nhất của con người là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay, có thể nói rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức lực của ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp tốt đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại”.
Vươn tới tầm ấy là đã tìm thấy hạnh phúc, như Lev Tolstoy mong mỏi: Sự thanh thản của tâm hồn. Với các văn nghệ sĩ cách mạng, thanh thản đó được thể hiện chí lý qua câu nói bất hủ của Mikhail Sholokhov: “Người ta cứ bảo tôi viết theo chỉ thị của Đảng. Sự thật, tôi chỉ viết theo chỉ thị của trái tim mình. Có điều, trái tim tôi thuộc về Đảng thân yêu mà tôi nguyện suốt đời phụng sự”. Ngừng học vì chiến tranh, ông tham gia nội chiến, khi mới 15 tuổi. Sau chiến tranh, ở tuổi 17, ông lên thủ đô, lăn lộn với nhiều việc chân tay nặng nhọc. Vừa kiếm sống vừa viết văn. Năm 19 tuổi, ông về làng quê, lấy vợ và hiến mình cho văn học. Năm 20 tuổi, xuất bản tác phẩm đầu tay. Năm 23 tuổi, công bố tập 1 bộ “Sông Đông êm đềm”. “Một con đại bàng non bất thần vẫy lên đôi cánh mênh mông”, ấy là đánh giá của văn hào Aleksey Tolstoy, tác giả “Con đường đau khổ”. Xin mở một ngoặc đơn, bộ tiểu tuyết ba tập này và bộ phim cùng tên cũng được công chúng Việt Nam đón nhận nồng nhiệt. Trong tôi thường vang lên, nội dung của nó, đại để: “Năm tháng sẽ qua đi. Các cuộc chiến tranh sẽ kết thúc. Các cuộc cách mạng sẽ thôi gầm thét. Nhưng còn lại mãi với anh mối tình dịu dàng và tha thiết của em”…
“Sông Đông êm đềm” được Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Stalin ủng hộ. Trong nước, bộ sách tiêu thụ được hơn 5 triệu bản, được dịch ra 50 ngôn ngữ, hai lần được dựng thành phim. Nó góp phần đắc lực để Sholokhov được trao Giải thưởng Nobel Văn học 1965. Tôi hồi hộp đọc nó. Đến nay, tôi vẫn bị ám ảnh bởi những câu tưởng thật bình thường: “Chàng (Grigori, nhân vật chính) đứng ở đầu giường, hôn các con, nhớ Natalia, nghĩ tới cuộc đời nhiều gian truân của mình và tự nhiên khóc”. Hoặc “Thời loạn lạc suy đồi luân lý/ Anh em nhà chớ xử án nhau… Cụ già bỏ đi và chiếc ảnh thánh (mà cụ chôn ở đầu ngôi mồ một chiến binh Cozak) còn lại mãi trên thảo nguyên, khiến người qua lại nhói lòng, với một nỗi buồn khó tỏ”.
Từ năm 1929, không ít nhà phê bình và nhà văn, như Alexandre Soljenitsyne, Nobel Văn học 1970, không sao tin nổi rằng, một chàng trai nông thôn ít học, quá trẻ, chưa mấy trải đời, có thể xây dựng được một kiệt tác đầy chất thơ và thâm trầm tới vậy. Họ cho rằng đó là tác phẩm của Fiodor Krioulov, nhà văn Cozak chống Bolshevik, chết vì bệnh thương hàn năm 1920. Mối nghi hoặc bất công đó tới năm 1991 mới được giải tỏa. Năm ấy, nhà báo Lev Koloduy tìm được bản thảo viết tay cùng nhiều tài liệu làm việc liên quan. Các thẩm định khoa học chứng minh rằng đó là của Sholokhov. Uy tín Sholokhov tăng lên gấp bội. Cảm nhận lịch sử và đời sống của ông tỏ ra sâu sắc và chính xác đến bất ngờ. Qua ông, chúng ta càng thấy rõ: “Nền văn hóa nào cũng nằm trong trái tim và khối óc của nhân dân” (Gandi). “Sông Đông êm đềm” được sánh với “Chiến tranh và hòa bình”. Lần đầu tiên, nhân dân được xưng tụng chuẩn xác, với bản chất thuần khiết, lương thiện, bao dung, bất chấp không ít tì vết. Bi kịch của Grigori, nhân vật “công chúng” kỳ vĩ, cho thấy thân phận nhân dân vẫn là cốt lõi của tiến trình lịch sử. Một trong những nét hấp dẫn của “Sông Đông êm đềm” là thiên nhiên được miêu tả vô cùng chân thật. Đặc biệt, mùa đông Nga, bạn đường của nhiều cây bút Nga lừng lẫy. Xuyên những làn sương gợn sóng/ Mảnh trăng mờ ảo chiếu qua/ Buồn rải ánh vàng lai láng/ Lên cánh đồng buồn giăng xa/ Không một mái lều ánh lửa/ Tuyết trắng và rừng bao la/ Chỉ những cột dài cây số/ Bên đường sừng sững chào ta…
Kế tục xứng đáng “Con đường mùa đông” này của A.Puskin, “Sao đồng quê” của Nicolay Rubtsov, “đồ đệ” số một của Sergei Yesenin, “linh hồn của cánh đồng Nga”-là biểu tượng của tâm hồn nhân dân Nga, biểu tượng của mọi biểu tượng-khiến ta xao xuyến mãi trong kiêu hãnh và vững lòng:
Sao đồng quê (ĐƯỜNG THI)
Sao đồng quê trong đêm giá băng
Dừng lặng cười gương giếng ngời xanh
Đồng hồ tường nửa đêm đã điểm
Quê hương tôi say ngủ thanh bình
Sao đồng quê khi tôi quá đau
Êm đềm soi tôi mê thấy sao
Đang lấp lánh mùa đông bạc ánh
Đang long lanh trên mịn thu vàng
Sao đồng quê muôn đời nhấp nháy
Với mỗi người hành tinh chúng ta
Sao âu yếm vỗ về mọi phố
Đang ngủ yên đêm buộc im mà
Chỉ nơi đây trong đêm giá băng
Sao mới lộ hết hồn cực sáng
Hễ chợt nhớ sao đang nhấp nhánh
Trên đồng quê tôi đã mừng rơn.
NGUYỄN VĂN QUẢNG