Cũng nửa thế kỷ ấy, dấu chân chiến binh công binh Hải quân in khắp các nẻo đường Tổ quốc, từ vùng biển Đông Bắc đến các đảo ngoài khơi và thềm lục địa phía Nam. Trong thành phố ánh đèn rực rỡ hay nơi núi cao, rừng rậm và biển sâu cũng như ngoài đảo tiền tiêu đều thấp thoáng bóng dáng những chiến binh Lữ đoàn 131, những người được ví “kê cao thềm Tổ quốc”, “Xây nhà trên biển”.

Có thể nói, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 131 thầm lặng và bền bỉ kế tiếp nhau viết nên những chiến công trong từng giờ, từng ngày. Họ vắt từng giọt mồ hôi làm chất kết dính, họ chiến đấu với nắng mưa bão tố, bắt đất đá, sắt thép, xi măng và bê tông phải lên cốt lên hình, thành những công trình bền vững, phát triển kinh tế-xã hội đất nước và bảo vệ chủ quyền Tổ quốc từ sớm, từ xa. Nhưng quan trọng nhất là họ đã đồng sức, đồng lòng để xây đắp nên truyền thống: Anh dũng sáng tạo, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng. 

leftcenterrightdel
 Chiến sĩ Lữ đoàn Công binh 131 Hải quân chuyển vật liệu lên đảo. Ảnh: TRUNG DŨNG

Tôi về Lữ đoàn đã hơn 20 năm và từng đảm nhiệm nhiều vị trí công tác khác nhau, tôi đã chứng kiến Lữ đoàn triển khai hàng chục chiến dịch ở các quy mô. Đồng nghĩa với mỗi chiến dịch là một cuộc chia tay trang nghiêm, hừng hực khí thế thi đua, nhưng không kém phần bùi ngùi, xúc động. Giờ lên đường, chiếc cổng sắt màu xanh thân thuộc được vệ binh Lữ đoàn chậm chạp mở ra như níu kéo thời gian chậm lại. Các loại xe chở cán bộ, chiến sĩ và phương tiện, máy móc thi công tăng ga, từ từ lăn bánh qua cổng để lại những cái vẫy tay mờ ảo và lời hứa chiến thắng tan vào gió. Lúc ấy tôi hiểu, các “chiến binh du mục” bắt đầu bước vào chiến dịch mới với vô vàn thử thách phía trước.

Nhân một lần Đại tá Nguyễn Kiều Kinh, nguyên Chính ủy Trung đoàn 131 về thăm đơn vị cũ, tôi đã “phỏng vấn” anh về những năm tháng “5 cùng” với bộ đội trên các công trường trọng điểm.

Anh kể, ngày anh về Trung đoàn nhận công tác vào năm 1984 cũng là lúc Trung đoàn nhận nhiệm vụ xây dựng cảng Hạ Long. Trung đoàn trưởng Lê Thượng Uyển thay mặt đơn vị hứa với các lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Quân chủng là sẽ hoàn thành công trình vượt tiến độ để những con tàu của Quân chủng vào cập cảng, chào mừng kỷ niệm 40 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trung đoàn đã xây dựng kế hoạch, tập trung lực lượng cao nhất để thi công ngày đêm. Lực lượng bảo đảm kỹ thuật, vật liệu chạy hết tốc lực để đạt công suất tối đa. Máy móc hoạt động không ngừng. Bất chấp mưa nắng và rét buốt, người lính công binh vẫn dầm mình trong nước biển để nạo vét nền, ghép cốt pha, đổ bê tông kè, mố trụ, dầm và mặt cầu cảng. Sau vài tháng, chiếc cầu cảng như một cánh tay chắc khỏe đã hình thành vươn dài ra biển. Khi nghiệm thu, các cán bộ kỹ thuật của Quân chủng đã đánh giá rất cao công trình về chất lượng kỹ, mỹ thuật. Với thành tích này, Trung đoàn được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì.

Trước đó, ngay sau ngày thành lập, Trung đoàn thi công công trình đầu tiên mang mật danh A-10. Đây là một thử thách rất lớn vì điều kiện thi công nạo vét và chuyển khoảng 200.000m3 đất đá trong lòng vũng làm chỗ neo đậu tàu rất khó khăn.

Ngày này qua ngày khác, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn ngâm mình trong bùn, phơi lưng dưới nắng hè bỏng rát và dầm mình trong cái lạnh thấu xương. Mùa nắng qua, mùa đông đến, người lính làm việc không ngơi nghỉ, tay chai sạn vì bốc đất, chân chai sạn vì lội bùn, mùa đông ngâm mình trong nước lạnh vẫn kiên tâm. Càng làm, người lính Trung đoàn càng dẻo dai, càng có kinh nghiệm. Năng suất ban đầu chỉ đạt 0,3m3, dần dần nâng lên 1m3 mỗi công lao động. Trong gian khổ, thử thách ấy đã xuất hiện nhiều tấm gương tập thể, cá nhân lao động hết mình, có nhiều sáng kiến, tiêu biểu như các đồng chí Vũ Thiện Chiến, Lê Văn Hữu đạt danh hiệu Chiến sĩ Quyết thắng.

Năm 1978, ngoài thực hiện nhiệm vụ A-10, Trung đoàn tiếp tục nhận nhiệm vụ xây dựng trận địa và công sự ở tuyến đảo Đông Bắc và Đà Nẵng. Đầu năm 1979, Trung đoàn lại nhận nhiệm vụ xây dựng công sự ở đảo Vạn Hoa rồi cảng Phạm Dùng và sửa chữa, nâng cấp Nhà truyền thống Quân chủng Hải quân.

Nhưng cuộc hành quân thần tốc và chứa đựng nhiều cam go của các chiến binh Trung đoàn tiến ra Quần đảo Trường Sa vào năm 1988 đã khẳng định tinh thần, bản lĩnh, trình độ tổ chức chỉ huy, hiệp đồng, để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc.

21 giờ 30 ngày 16-2-1988 (tức đêm Ba mươi Tết Mậu Thìn), Trung đoàn được lệnh điều gấp một tiểu đoàn và một bộ phận cơ quan Trung đoàn từ Hà Tu (Quảng Ninh) vào Cam Ranh (Khánh Hòa) để nhận nhiệm vụ xây dựng ở Quần đảo Trường Sa. 21 giờ ngày 22-2, Tiểu đoàn 884 và bộ phận tiền trạm hành quân vào Cam Ranh rồi ra đảo thi công các nhà C1 và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Đại tá Nguyễn Kiều Kinh kể, đêm 15-3-1988, Đại đội 12, Tiểu đoàn 884 nhận nhiệm vụ ra đảo xây dựng công trình ở Trường Sa gấp. Ngày 31-3, sau 12 ngày lắp ráp, thử độ bền công trình, người lính Đại đội 12 đã hoàn thành nhiệm vụ và tạm biệt đồng đội giữ đảo trở lại đất liền.

Cũng trong năm đó, cuối tháng 8, Đại đội 12 lại nhận lệnh tổ chức xây dựng công trình ngoài đảo. Đồng chí Nguyễn Kiều Kinh, Trợ lý Chính trị Tiểu đoàn 884 được chỉ định làm khung trưởng đã chỉ huy bộ đội hoàn thành nhiệm vụ thi công nhà cấp II Thuyền Chài vượt tiến độ 8 ngày. Những thắng lợi này mở ra chương mới trong hành trình xây dựng công trình biển xa của Trung đoàn suốt những năm tháng sau này.

Năm 2003, tôi chia tay những người lính trẻ đi công trường ngoài đảo. Ngày họ trở lại Trung đoàn, tôi suýt không nhận ra. Nhìn thân hình cường tráng, chắc nịch và đôi mắt luôn ánh lên niềm tự hào lấp lánh của họ, tôi rất mừng. Đổi lại, tôi cũng xót lòng thấy nước da sạm nắng, bàn tay phồng rộp và mái tóc hoe vàng. Một chiến sĩ từng tâm sự “Công trình ngoài biển không chỉ là nhà, là bến... mà là nơi Tổ quốc nhìn ra biển lớn” khiến tôi lặng người. Trong cái khắc nghiệt của gió muối và sóng dữ, người lính công binh 131 không chỉ xây dựng vật chất mà còn đắp xây tinh thần vươn ra biển, giữ vững từng tấc nước.

Năm 2013, Trung đoàn có quyết định nâng cấp thành Lữ đoàn. Cũng từ đó đến nay, Lữ đoàn đảm nhiệm hàng loạt công trình trọng điểm ở phía Nam. Ở đó, những người lính phải làm việc trong điều kiện đặc biệt khắc nghiệt: Nước mặn ăn mòn từng chi tiết máy, sóng biển giội tung từng đợt bê tông, gió như dao cắt. Vậy mà công trình nào do chiến binh Lữ đoàn 131 xây dựng, hoàn thành cũng vững chãi, kiên định như chính người lính tạo dựng nên nó. Đằng sau mỗi mét kè, mỗi bến cảng là hàng nghìn giờ làm việc trong tư thế “nửa đất liền-nửa biển khơi”, là bàn tay chai sạn, là giấc ngủ chập chờn trong tiếng sóng gào, là bữa cơm giữa công trường gió lộng, nhưng nụ cười luôn tràn đầy niềm tin kiêu hãnh.

Tôi nhớ một đêm trăng nhạt trên đảo, khi công trình sắp hoàn thiện. Cả đơn vị thức trắng để đổ bê tông. Tiếng máy nổ hòa với tiếng sóng, tiếng hát khe khẽ của ai đó vang lên giữa đêm: “Biển hát chiều nay, biển hát ngày mai...”. Âm thanh nhỏ bé mà khiến tôi thấy cả đại dương như đang lắng nghe. Trong khoảnh khắc ấy, tôi hiểu rõ hơn hai chữ chiến binh. Họ đã chiến đấu không bằng súng, mà bằng niềm tin.

Truyền thống của Lữ đoàn 131 không chỉ được đo bằng công trình đã hoàn thành, mà còn bằng cách họ vượt qua chính mình. Nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã đi gửi lại thanh xuân vào công trình giữa sóng gió. Có người rời đảo, mái tóc đã bạc, nhưng khi nhìn thấy công trình do tay mình dựng lên vẫn trụ vững qua bao mùa bão tố, lòng họ lại sáng lên một niềm vui lặng lẽ. Đó là phần thưởng lớn nhất của người lính công binh. Phần thưởng của sự bền bỉ, của cống hiến âm thầm.

Trong thời kỳ mới, khi Quân đội đang hiện đại hóa, nhiệm vụ của Lữ đoàn Công binh 131 càng mở rộng và khó khăn hơn. Những công trình do chúng tôi đảm nhiệm ngày nay tích hợp cả yếu tố kỹ thuật cao, công nghệ mới, yêu cầu sự chính xác tuyệt đối. Nhưng dù công nghệ có thay đổi thế nào, cái gốc vẫn là tinh thần người lính: Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Tổ quốc.

Có người từng nói: “Nếu Tổ quốc là một con tàu khổng lồ hướng ra biển lớn thì Lữ đoàn 131 chính là những người đóng đinh giữ chặt con tàu ấy trên sóng”. Hình ảnh ấy giản dị mà đúng đến thẳm sâu. Bởi nửa thế kỷ qua, chúng tôi vẫn kiên cường nơi đầu sóng, giữa gió cát, lặng lẽ vun đắp từng viên đá để đất liền và hải đảo xích lại gần hơn.

Giờ đây, mỗi khi đi qua những công trình của Lữ đoàn đã xây dựng và hoàn thành, tôi luôn thấy ở đó bóng dáng của chiến binh. Họ hiện diện trong từng đường nét kiên cố, từng góc vuông, từng bậc cầu thang hướng ra biển. Tôi liên tưởng, mỗi công trình là một cột mốc Tổ quốc, như “bản nhạc” của lòng trung thành, viết bằng mồ hôi và nhịp tim chiến binh.

50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Lữ đoàn Công binh 131 Hải quân vinh dự nhận được nhiều phần thưởng cao quý. Hai lần được tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân vào năm 1989 và năm 2005; Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất, Nhì, cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.