QĐND - Thị trấn Thắng (Hiệp Hòa - Bắc Giang) một ngày hè nắng tháng sáu. Trong hiệu sửa đồng hồ nằm gần ngã tư Biển, anh lặng lẽ vặn xoáy từng con ốc nhỏ li ti. Nhìn ra con đường tràn nắng, trong anh chợt bừng lên cảm xúc, và những bài thơ về mùa hè đỏ lửa năm xưa ấy đã ra đời ngay bên chiếc bàn với toàn dụng cụ sửa đồng hồ...
Những ngày “cơm Bắc giặc Nam”…
Mai Thế Tiến sinh năm 1949. Tháng 9-1968, tròn 19 tuổi, anh nhập ngũ vào Tiểu đoàn 31, Đoàn 305, Binh chủng Đặc công. Sau những tháng ngày huấn luyện vất vả ở Gia Lâm (Hà Nội), anh cùng đồng đội hành quân vào Nam chiến đấu. Từ khu hậu cứ là nông trường Quyết Thắng, họ bắt đầu những ngày “cơm Bắc giặc Nam”, tức là từ đây, các chiến sĩ đặc công bí mật cơ động vào trinh sát nắm địch ở địa bàn Quảng Trị. Trận đầu tiên đơn vị trinh sát của Tiến được du kích dẫn đường hành quân một ngày đến làng Cam Võ thuộc xã Cam Thủy (Cam Lộ - Quảng Trị). Đây thực chất là “ấp chiến lược” mà địch lập ra, được bao bọc bởi hàng rào kẽm gai, mìn, các lô cốt dã chiến. Ban ngày các anh ngụy trang kỹ, ém trong bãi lau sậy chờ đêm xuống mới mò vào trinh sát từng điểm, dò mìn, luồn chống hàng rào kẽm gai, nhích từng tí một. Chỉ sơ sểnh là địch sẽ bật đèn pha, tung hỏa lực, coi như mất mạng mà không hoàn thành nhiệm vụ… Trọn một đêm vô cùng căng thẳng, cuối cùng Tiến và đồng đội cũng nắm chắc địch, gấp rút vẽ sơ đồ, đắp sa bàn để đơn vị bộ binh chuẩn bị chiến đấu. Kết quả trận đó, ta đã tiêu diệt và làm tan rã lực lượng khoảng hai đại đội địch ở đồi Bắc làng Cam Võ. Chiến công đầu ấy có phần của chiến sĩ trinh sát Mai Thế Tiến…
 |
Anh Mai Thế Tiến -người thợ sửa đồng hồ, với những ký ức về một thời Quảng Trị.
|
Từ sự khởi đầu đó, anh dũng cảm, tự tin bước vào những cuộc trinh sát triền miên và đã không ít lần đối mặt với tử thần. Một trong những lần đó chính là ở thời điểm “mùa hè đỏ lửa năm 1972”, đã khiến Mai Thế Tiến hỏng một bên tai. Lúc ấy, anh là tiểu đội trưởng trinh sát được cử phụ trách một tổ làm nhiệm vụ trinh sát nắm địch, vừa dẫn đường, bảo vệ bộ phận công tác của Trưởng phòng Đặc công Quân khu Trị Thiên. Trong suốt hơn hai tháng trời, mỗi ngày xấp xỉ hai chục lần máy bay địch quần thảo và oanh kích những chỗ nghi có quân ta. Trận bom lúc 10 giờ trưa hôm ấy đánh sập hầm trú ẩn, làm anh bị sức ép mặt mũi đen sì, ngất đi. Được anh em du kích đưa cấp cứu và nuôi giấu trong ngôi làng cách đó không xa, rồi được rút ra Bệnh viện 73 (đóng tại Bố Trạch, Quảng Bình) điều trị. Khi sức khỏe ổn định, anh được điều về đơn vị tiếp tục những hành trình lặng thầm của người lính trinh sát đặc công cho đến ngày toàn thắng (30-4-1975)…
Những bài thơ đong đầy ân nghĩa…
Tháng 8-1976, tròn 8 năm trong quân ngũ, anh trở về với đời thường, với nghề thợ sửa chữa đồng hồ, lấy vợ, sinh con. Anh luôn cho rằng mình là người may mắn, trở về dù một bên tai vẫn bị di chứng. Nhiều người khuyên anh nên cố làm giám định để được công nhận thương binh, nhưng anh bảo: “Trên người mình không có vết sẹo nào, duy có nặng tai với tỉ lệ hơn chục phần trăm, chả cố làm gì, thế là mình đã may lắm rồi, hơn bao đồng đội”…
Người thợ sửa đồng hồ ấy giờ đây cứ nhớ về kỷ niệm chiến đấu là lại làm thơ. Anh làm tới cả 500 bài! Trong số ấy, phần sâu lắng nhất viết về sự hy sinh của đồng đội. Tiêu biểu như bài thơ “Bên dòng Hiếu giang” với những câu thơ giản dị mà gây xúc động mạnh cho người đọc. Anh kể rằng, hồi chiến đấu ở vùng Cam Lộ, được nghe chuyện về nữ du kích đã quên mình cứu thoát cả đoàn thương binh của Tiểu đoàn 31. Hôm ấy, những chiến sĩ bị thương nhẹ vẫn tự cơ động được từ vùng giáp ranh với địch ra khu căn cứ ở Vĩnh Sơn (Vĩnh Linh) điều trị. Bộ phận này dưới sự dẫn đường và bảo vệ của một nữ du kích xã Cam Hiếu tên là Sen. Sen mang súng trên vai, như con thoi lúc dẫn đầu đội hình, lúc đi sau cảnh giới chặn hậu đề phòng địch bất ngờ tập kích. Giữa đường bất ngờ gặp ổ phục kích của địch, Sen đã mưu trí tách ra nổ súng để thu hút địch về phía mình, tạo điều kiện cho đoàn thương binh chạy thoát. Khi tiếng súng đã im, một số thương binh quay trở lại tìm thì thấy Sen đã hy sinh, máu còn nhuộm đỏ dưới đất nơi cô nằm xuống. Anh viết: “Em là cô gái vốn tên Sen… / Một lần đưa dẫn tổ thương binh / Giặc vây phục kích lúc bình minh / Chặn hậu đối đầu em nổ súng / Hộ tống đoàn đi được yên bình /… Em đã đi về với cỏ cây / Hoa sen như tiếng kèn xung trận / Nhớ mãi mai sau mảnh đất này”.
Kể chuyện và đọc cho tôi nghe bài thơ này, mắt anh chợt đỏ. Một lát sau, anh mới kể tiếp về anh Minh, người đồng đội đã vào sinh ra tử, rồi bị thương nặng trong một lần đi trinh sát cùng anh. Hôm ấy, trên trục đường 76 phía nam sông Bến Hải, hai người bí mật cơ động đến vị trí thuận lợi để quan sát. Minh không sợ hiểm nguy trèo lên một cây cao để quan sát, không may trượt chân ngã từ trên cao đập lưng xuống đất. Tiến cõng đồng đội về cứ và vô cùng đau đớn khi biết Minh đã bị liệt toàn thân, phải từ giã cuộc chiến đấu để ra Bắc điều trị. “Đã bốn chục năm rồi, không biết Minh giờ ra sao?”- anh nói và đọc tiếp: “Đã tròn bốn mươi năm / Của một mùa hè đỏ lửa / Tôi nhớ thời chiến tranh Thành cổ / Tám mốt ngày đêm giữa túi đạn, mưa bom / Mùa hè bảy hai rực lửa căm hờn / Ta và địch tiến lui từng tấc đất / Thành cổ vẫn kiên cường bất khuất / Máu chiến sĩ ta nhuộm đỏ dòng sông / Thạch Hãn ơi vẫn đứng vững thành đồng / Càng thua đậm, chúng huy động nhiều B52 / Pháo bầy, pháo biển, pháo nòng dài / Hòng hủy diệt để không còn sự sống / Chúng vẫn thua chẳng còn gì ảo mộng / Nóc Thành cổ tung bay cờ Giải phóng / Cả dân tộc ta ghi nhận ngày này / Bao chiến công những anh hùng liệt sĩ / Nhớ một thời đất Hải Lăng, Quảng Trị / Dòng Thạch Hãn bây giờ… / Trắng ngát hoa trôi…”.
Bài và ảnh: Nguyễn Hoàng