Để pháp luật đi vào cuộc sống
Theo Hiến pháp, giám sát của Quốc hội được hiểu là việc theo dõi, xem xét và đánh giá hoạt động của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và cơ quan tư pháp nhằm bảo đảm pháp luật được tuân thủ, quyền lực không bị lạm dụng, đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật khi phát hiện bất cập. Nói cách khác, nếu lập pháp là khâu “đặt ra luật” thì giám sát chính là cơ chế bảo đảm luật ấy được thực thi đúng đắn, đồng thời kịp thời vá những “lỗ hổng” phát sinh.
    |
 |
Tổng Bí thư Tô Lâm, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham quan Triển lãm ảnh "Quốc hội Việt Nam - 80 năm kế thừa và phát triển". Ảnh: CÔNG QUỐC
|
Giám sát quan trọng vì nó khắc phục khoảng cách giữa thiết kế và thực thi, buộc các cơ quan phải giải trình và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Mỗi cuộc giám sát cũng là một vòng “học tập thể chế”, nơi những bài học thực tiễn được chưng cất thành cơ sở để sửa đổi luật pháp, nâng cao chất lượng chính sách. Thực tiễn Việt Nam đã cho thấy, từ giám sát cải cách bộ máy hành chính để chấm dứt “luật khung, luật ống”, đến giám sát môi trường đưa cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất vào luật, hay giám sát đất đai làm cơ sở cho Luật Đất đai năm 2024 với nhiều đổi mới căn bản, tất cả đều góp phần làm cho thể chế ngày càng minh bạch, hiệu quả và gần gũi hơn với đời sống nhân dân.
Không ít chính sách đúng đắn gặp vướng mắc khi đi vào thực tiễn. Vấn đề thường nằm ở thủ tục rườm rà, năng lực cán bộ hạn chế hoặc phối hợp thiếu đồng bộ. Giám sát của Quốc hội giúp soi chiếu những “điểm nghẽn” này, từ đó chỉ ra nguyên nhân, quy trách nhiệm và yêu cầu khắc phục.
Một ví dụ điển hình là giám sát việc triển khai chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Quốc hội phát hiện thủ tục vay vốn phức tạp, giải ngân chậm, khiến nông dân khó tiếp cận nguồn vốn. Trên cơ sở kiến nghị giám sát, Chính phủ đã điều chỉnh cơ chế, đơn giản hóa hồ sơ, rút ngắn thời gian giải quyết, giúp vốn đến tay nông dân nhanh hơn. Nhờ vậy, chính sách không dừng lại ở nghị quyết, mà đi thẳng vào cuộc sống, củng cố niềm tin của người dân vào pháp luật.
Không chỉ trong tín dụng, giám sát thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cũng chỉ ra tình trạng dàn trải, thiếu tập trung, chậm trễ thủ tục. Sau giám sát, các bộ, ngành đã điều chỉnh quy trình, xác định rõ trách nhiệm từng khâu để bảo đảm chính sách hỗ trợ đến đúng đối tượng.
Một giá trị lớn của giám sát là biến tiếng nói của nhân dân thành cơ sở điều chỉnh chính sách. Đại biểu Quốc hội gắn bó với cử tri, lắng nghe và chuyển tải kiến nghị vào nghị trường. Khi được đưa vào nghị trình giám sát, những phản ánh đó trở thành bằng chứng sống động để Quốc hội thúc đẩy sửa đổi pháp luật.
Giám sát bảo vệ môi trường là ví dụ tiêu biểu. Từ kiến nghị cử tri về xả thải công nghiệp, Quốc hội tiến hành giám sát chuyên đề, phát hiện nhiều bất cập trong kiểm soát và thẩm định. Kết quả là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 được sửa đổi với những quy định nghiêm khắc hơn, như cơ chế EPR (Extended Producer Responsibility-trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất) và chế tài xử phạt tăng cường. Đây là minh chứng rõ ràng cho thấy giám sát là “cầu nối” để tiếng nói của nhân dân đi thẳng vào chính sách, biến bức xúc xã hội thành hành động lập pháp cụ thể.
Không chỉ môi trường, trong nhiều kỳ họp, kiến nghị cử tri về giá thuốc, an toàn thực phẩm, hay bất cập trong quản lý giáo dục-y tế cũng đã được đưa vào chương trình giám sát. Nhờ đó, nhiều chính sách xã hội quan trọng được điều chỉnh kịp thời, sát hơn với nguyện vọng của người dân.
Thúc đẩy cải cách thể chế từ gốc
Điều quan trọng hơn cả, giám sát của Quốc hội thường chỉ ra những vấn đề mang tính cấu trúc, đòi hỏi cải cách tận gốc rễ.
Giám sát đất đai là minh chứng điển hình. Quốc hội đã chỉ ra hàng loạt bất cập: Phân cấp chồng chéo, cơ chế xin-cho, thất thoát nguồn lực và tình trạng “hai giá” trong định giá đất. Đây chính là động lực để sửa đổi toàn diện Luật Đất đai năm 2024-một đạo luật then chốt, đưa nguyên tắc thị trường vào định giá đất, tăng minh bạch và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Tương tự, giám sát chậm giải ngân vốn đầu tư công đã làm rõ thủ tục rườm rà và năng lực hạn chế trong tổ chức thực hiện. Từ đó, Quốc hội kiến nghị phân cấp mạnh hơn, cắt giảm khâu trung gian và ban hành cơ chế đặc thù cho các dự án trọng điểm. Đây là thay đổi mang tính hệ thống, góp phần cải thiện toàn bộ môi trường thể chế.
Có thể hình dung, nếu lập pháp là khâu “thiết kế”, thì giám sát là khâu “kiểm định” và “cải tiến” trong toàn bộ chu trình chính sách. Chu trình đó gồm: Ban hành → thực thi → giám sát → điều chỉnh → hoàn thiện. Nhờ giám sát, vòng lặp này trở nên khép kín, bảo đảm chính sách công không ngừng được nâng cấp.
Ý nghĩa của giám sát còn vượt ra ngoài lĩnh vực lập pháp. Nó nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, bảo đảm sự minh bạch trong điều hành, củng cố niềm tin của nhân dân và khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Một Quốc hội mạnh không chỉ được đo bằng số lượng luật ban hành mà còn bằng chất lượng giám sát-bảo đảm luật và chính sách trở thành công cụ sống động của đời sống quốc gia.
Để giám sát thực sự trở thành động lực hoàn thiện thể chế, cần đồng bộ nhiều giải pháp: Nâng cao năng lực và kỹ năng giám sát của đại biểu, ủy ban của Quốc hội; ứng dụng dữ liệu số và công nghệ phân tích hiện đại để giám sát dựa trên chứng cứ; hoàn thiện cơ chế hậu giám sát với thời hạn thực hiện và chế tài rõ ràng; đồng thời mở rộng sự tham gia của cử tri, báo chí, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội để bảo đảm tính khách quan, đa chiều.
Giám sát của Quốc hội không chỉ nhằm phát hiện sai phạm hay bất cập mà còn là cơ chế bảo đảm trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền. Thông qua chất vấn, báo cáo và giám sát chuyên đề, các bộ trưởng, trưởng ngành và người đứng đầu cơ quan phải trực tiếp trả lời trước Quốc hội và nhân dân. Những phiên chất vấn sôi nổi tại nghị trường đã trở thành “diễn đàn công khai” buộc người có thẩm quyền phải minh bạch thông tin, thừa nhận hạn chế, cam kết giải pháp. Nhờ vậy, giám sát đã tạo ra áp lực chính trị và pháp lý để mỗi quyết định quản lý nhà nước đều gắn với trách nhiệm cụ thể, góp phần nâng cao hiệu quả điều hành và củng cố niềm tin của nhân dân.
Trong dòng chảy lịch sử, thể chế quốc gia giống như một con thuyền lớn vượt sóng ra khơi. Lập pháp là lúc ta vẽ nên hình hài con thuyền, còn giám sát là ngọn hải đăng soi đường, bảo đảm con thuyền ấy không chệch hướng, không va vào đá ngầm. Nhờ giám sát, những lỗ hổng được vá lại, những cánh buồm được điều chỉnh để bắt gió mạnh hơn.
Một Quốc hội mạnh mẽ không chỉ ở việc ban hành nhiều đạo luật, mà quan trọng hơn là biết giám sát đến nơi đến chốn, để mỗi đạo luật trở thành sức sống trong đời sống nhân dân. Khi chức năng giám sát được phát huy đến mức cao nhất, thể chế sẽ không ngừng tự làm mới, ngày càng minh bạch, hiệu quả và gần dân hơn. Đó cũng là cách Quốc hội khẳng định vai trò trung tâm trong kiến tạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: một Nhà nước “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, nơi mọi chính sách, mọi đạo luật đều phản chiếu được hơi thở cuộc sống và khát vọng trường tồn, phát triển của dân tộc.