Những cuộc đấu tranh thầm lặng, quyết liệt

Phóng viên (PV): Thưa ông, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã cảnh báo rằng, trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch “lấy hoạt động tư tưởng-văn hóa là “mũi đột phá”, là lĩnh vực hàng đầu làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa”. Nhìn vào lịch sử 90 năm của Đảng ta, ông có nhận xét gì?

PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc: Nói về tầm quan trọng của nền tảng tư tưởng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh từng nói: “Ðảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Ðảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.

Có thể nói là liên tục từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào mùa xuân năm 1930 cho đến thời điểm này, tôi thấy không có chặng đường lịch sử nào mà Đảng không phải đối phó với những chống phá về tư tưởng, lý luận. Vì vậy, Đảng ta có rất nhiều cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, nhưng tôi muốn nhấn mạnh 3 thời điểm mà Đảng ta phải chống quyết liệt và đã chống thành công. Đó là thời điểm chống sự xâm nhập của chủ nghĩa Trotsky, ở ta gọi là những phần tử Trốt-kít. Chủ nghĩa này ra đời từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, chống phá cách mạng nhiều nước xã hội chủ nghĩa, nó phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nó xâm nhập vào Đảng ta cuối những năm 30 của thế kỷ 20. Những nhân vật Trốt-kít lúc đó như Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch... đã ra sức phá hoại tư tưởng và đường lối chính trị của Đảng. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khi đó dù đang ở bên Trung Quốc vẫn gửi những chỉ đạo đấu tranh về trong nước. Đồng chí nhắc các đồng chí Trung ương: “Tuyệt đối chống bọn Trốt-kít, không có bất kỳ sự nhượng bộ nào về tư tưởng, về chính trị”.

Thời điểm thứ hai, tôi được chứng kiến là những năm 60 của thế kỷ 20, trong phong trào cộng sản quốc tế xuất hiện chủ nghĩa xét lại hiện đại, đòi xét lại những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, xuyên tạc, bôi đen Chủ nghĩa Mác-Lênin. Lúc đó, Trung ương Đảng ta phải ra một nghị quyết quan trọng, đó là Nghị quyết Trung ương 9, khóa III, tháng 12-1963. Nghị quyết thể hiện bản lĩnh của Đảng, tầm trí tuệ, hiểu biết sâu sắc về Chủ nghĩa Mác-Lênin và nhận diện thấu đáo những luận điệu xuyên tạc của chủ nghĩa xét lại hiện đại.

Lúc đó, trong Đảng xuất hiện một số người đi theo chủ nghĩa xét lại, chống lại đường lối của Đảng. Đảng ta đã xử lý rất kiên quyết những người theo chủ nghĩa xét lại để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

leftcenterrightdel
PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc

Và thời điểm thứ ba mà ta biết, đó là thời điểm cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20, đặc biệt là giai đoạn 1989-1991, cuộc đấu tranh trên phương diện tư tưởng, cũng phê phán chủ nghĩa xét lại hiện đại. Bây giờ nhìn lại sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu, thấy có nhiều nguyên nhân, nhưng phải khẳng định có một nguyên nhân là chính sự phản bội về tư tưởng, lý luận, đi đến phản bội chính trị của một số người lãnh đạo ở các nước xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến bi kịch lịch sử ở Đông Âu và Liên Xô.

Ở nước ta, các phần tử phản động, cơ hội chính trị dựa hơi trào lưu đòi “dân chủ hóa, công khai hóa”, đòi “đa nguyên, đa đảng” giống như ở Liên Xô, Đông Âu. Nhưng Đảng ta lập tức đấu tranh rất kiên quyết. Kinh nghiệm ở đây là ta đã phát hiện sớm để phòng ngừa, tổ chức đấu tranh kịp thời. Ta dự báo rất sớm, cho nên Hội nghị Trung ương 6, khóa VI, tháng 3-1989, Đảng ta đề ra 6 nguyên tắc trong công cuộc đổi mới, trong đó nhấn mạnh nguyên tắc: “Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. Đến Đại hội VII năm 1991 của Đảng thì đưa vào nghị quyết khẳng định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng. Để có được nghị quyết và sự khẳng định như vậy, Đảng ta đã trải qua một cuộc đấu tranh không khoan nhượng, đã xử lý không ít đảng viên, có cả đảng viên là lãnh đạo cấp cao mơ hồ, dao động, xa rời nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Người đứng đầu nêu gương trong tranh đấu

PV: Thưa ông, trong những cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt kể trên, các nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng ta ở những thời điểm đó đã thể hiện rõ trách nhiệm “đứng mũi chịu sào”, trực tiếp nêu gương trong đấu tranh tư tưởng như thế nào?

PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc: Vai trò các đồng chí Tổng Bí thư thể hiện rất rõ trong các cuộc đấu tranh đó. Ví dụ, đồng chí Hà Huy Tập là Tổng Bí thư của Đảng từ tháng 7-1936 đến tháng 3-1938. Thời gian này, đồng chí đã dùng nhiều công sức tổng kết kinh nghiệm chống Trốt-kít ở các nước và trực tiếp viết tác phẩm “Trotsky và phản cách mạng”, trình bày một cách có hệ thống bản chất của chủ nghĩa Trotsky là gì; những phần tử Trốt-kít ở các nước tư bản và cả các nước thuộc địa thì bộ mặt của nó như thế nào; vạch trần tính chất phản động và phản khoa học của chủ nghĩa Trotsky này để quần chúng công-nông hiểu được bản chất vấn đề.

Sau Tổng Bí thư Hà Huy Tập là đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư của Đảng từ tháng 3-1938 đến năm 1940. Trong tác phẩm “Tự chỉ trích”, đồng chí đã dành một phần rất quan trọng để tự phê bình về những sai sót, sai lầm của một số đồng chí trong Đảng không kiên định lập trường, bị luận điệu của chủ nghĩa Trotsky và những phần tử Trốt-kít Việt Nam tác động, hợp tác vô nguyên tắc với Trốt-kít, để cánh Trốt-kít lừa mị quần chúng. Tác phẩm rất có giá trị đấu tranh về lý luận, đồng thời bảo vệ đường lối của Đảng. Lúc đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng viết thư gửi về: “Đối với bọn Trốt-kít thì phải tiêu diệt nó về mặt chính trị và không bao giờ được thỏa hiệp” và điều kỳ diệu là những chỉ đạo ấy hoàn toàn phù hợp với những chỉ đạo của đồng chí Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Cừ ở trong nước.

Còn chặng thứ hai, thập niên 1960 chống chủ nghĩa xét lại. Chủ nghĩa xét lại hiện đại phê phán, đòi xem lại học thuyết Mác, xuyên tạc rất ghê. Lúc đó, trong phong trào cộng sản quốc tế có hai xu hướng là tả khuynh và hữu khuynh ở ngay trong các đảng lớn. Mình đấu tranh như thế nào cho có tính thuyết phục, để cả Liên Xô và Trung Quốc đều ủng hộ mình giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là cả một vấn đề lớn đặt ra. Thực tế, cuộc đấu tranh tư tưởng lúc đó khiến một bộ phận đảng viên của ta bị tác động, có người tả khuynh, người hữu khuynh, xuất hiện đề xuất ngả theo bên này, bên kia... Lúc đó, đồng chí Lê Duẩn là Bí thư thứ nhất. Tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới” nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Đảng là một sự tổng kết chính trị, tư tưởng, khẳng định giá trị khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng chí Trường Chinh thì viết “Đời đời nhớ ơn Các Mác và đi theo con đường Các Mác đã vạch ra” năm 1968. Lúc đó, thanh niên chúng tôi háo hức tìm đọc, cũng chưa hiểu nhiều về lý luận đâu nhưng mà thích lắm, thấy “thông tư tưởng” lắm.

Còn Bác Hồ, khi ấy không chỉ đấu tranh tư tưởng trong Đảng, Bác còn có vai trò quốc tế to lớn. Lúc đó, Hồ Chí Minh thuộc số rất ít đồng chí còn lại từng nằm trong Quốc tế Cộng sản III. Với uy tín của mình, Bác đã thuyết phục các đảng lớn giữ gìn tình đoàn kết để tạo sức mạnh cho phong trào cộng sản quốc tế. Giai đoạn này, Bác viết tác phẩm “Con đường dẫn tôi đến Chủ nghĩa Lênin” vào tháng 4-1960. Thông qua những tác phẩm này, Bác khẳng định quan điểm, tư tưởng của mình và đề cao vai trò Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Giai đoạn 1986-1991, chúng ta thấy rõ vai trò của đồng chí Nguyễn Văn Linh trong đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Bắt đầu bằng việc đồng chí đi dự kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười năm 1987 ở Liên Xô, khi về, đồng chí đã đến nói chuyện với anh em chúng tôi trong Học viện Chính trị Quốc gia. Tôi vẫn nhớ mãi buổi nói chuyện hôm đó, đồng chí có câu là “trông người mà nghĩ đến ta”. Từ lúc đó, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã phát hiện được những dấu hiệu không bình thường về mặt tư tưởng, về mặt ý thức hệ của Liên Xô qua phát biểu của Gorbachyov. Từ đấy, đồng chí chuẩn bị cho Đảng những tâm thế, cách thức để làm công tác tư tưởng và tiến công các thế lực thù địch về tư tưởng. Thế nên tháng 3-1989, khi tình hình cải tổ của Liên Xô đi vào trầm trọng, Hội nghị Trung ương 6, khóa VI của Đảng mới vững vàng đề ra nguyên tắc của đổi mới. Sau đó là Hội nghị Trung ương 7, khóa VI về công tác tư tưởng của Đảng, làm cơ sở cho chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa; cũng như nhận diện và xử lý những biểu hiện hoang mang, dao động tư tưởng trong một bộ phận đảng viên.

Nhận diện chiêu trò “tuyệt đối hóa” để phủ nhận

PV: Thưa ông, trong chiến thuật tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay, các thế lực thù địch sử dụng thủ đoạn “tuyệt đối hóa” vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo ông, cần nhận diện thủ đoạn thâm độc này như thế nào?

PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc: Đấy có thể là chiêu trò “đánh từng bước” của họ. Những luận điệu xuyên tạc về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm “hạ bệ thần tượng” của nhân dân Việt Nam khó đạt được mục đích. Bởi ở Việt Nam, mọi sự xuyên tạc về Hồ Chí Minh đều dẫn đến hệ quả là bộ mặt thật của những kẻ phản động, cơ hội chính trị bị lộ diện. Cho nên họ chuyển sang trò “tung hô” cực đoan, “tuyệt đối hóa” vai trò tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận hoàn toàn Chủ nghĩa Mác-Lênin, họ ra sức rêu rao rằng Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh, không cần Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Phải nói rằng đây là trò lừa gạt rất tinh vi, một số người nghiên cứu không kỹ có thể mắc mưu họ. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, nếu Đảng ta không “giữ Chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt” thì sẽ không giữ được bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ và không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Hồng Hải - Hoàng Việt (thực hiện)