QĐND - Quan hệ ngoại giao Việt - Nga là một mối quan hệ hết sức đặc biệt, được hai dân tộc dày công vun đắp trong nhiều thập kỷ qua. Hơn thế, đó còn là mối quan hệ được thiết lập trên cơ sở tình đoàn kết anh em, dựa trên nền tảng tin cậy cao và liên tục phát triển.
Nhân kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần đã có cuộc trao đổi cùng TS Đỗ Sơn Hải, Trưởng khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao, Học viện Ngoại giao Việt Nam, về mối quan hệ đặc biệt này.  

Tiến sĩ Đỗ Sơn Hải. Ảnh: Trần Long

Phóng viên (PV): Quan hệ Việt -Nga đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng từ thập niên 1920 của thế kỷ trước và là một trong những mối quan hệ đặc biệt quan trọng với cả nhân dân hai nước. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, với những biến động về chính trị, xã hội của cả hai nước, ông có thể khái quát lại mối quan hệ ấy?   

TS Đỗ Sơn Hải: Ta có thể chia nước Nga thành 3 giai đoạn: Nước Nga Sa hoàng, nước Nga Xô -viết, tức nước Nga thời Liên Xô và nước Nga ngày nay. Thời Sa hoàng thì xa xôi rồi. Bắt đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga, nhà nước Nga Xô -viết ra đời. Bác Hồ đặt chân lên nước Nga năm 1923, đó có thể gọi là thời điểm quan hệ Việt -Nga được manh nha. Mối quan hệ này bắt nguồn từ lợi ích chung của hai dân tộc, có sự đồng cảm, gắn liền với Quốc tế Cộng sản III, do Lê -nin sáng lập năm 1919. Cũng từ hướng dẫn của Quốc tế Cộng sản III, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. 

Khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Liên Xô là một trong những quốc gia đầu tiên công nhận (30-1-1950, chỉ sau Trung Quốc 18-1-1950). Chúng ta thấy là, cùng khoảng thời gian khi Liên Xô công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, cho đến nay, quan hệ Việt -Xô cũng như quan hệ Việt -Nga tương đối phát triển. 

Nước Nga hiện đại ra đời, chính xác là lấy ngày độc lập 20-6-1990, là nước kế thừa duy nhất Liên Xô. Chính vì thế, đối với người Việt, nước Nga hiện đại và Liên Xô có gì đó rất tương đồng. Nhìn nước Nga hiện nay mà vẫn nhớ về Liên Xô trước kia, tức là không có sự phân biệt. 

Quan hệ Việt -Xô và quan hệ Việt -Nga không có sự phân biệt lớn, dù nước Nga ngày nay không còn là Liên Xô trước kia. Điều này chứng tỏ trong lòng mỗi người dân Việt Nam, ấn tượng về nước Nga giống như ấn tượng về quan hệ Việt -Xô không phai mờ. Nó không phai mờ vì những đóng góp hết sức to lớn của nhân dân Liên Xô trong công cuộc chống Mỹ, cứu nước và xây dựng CNXH của nhân dân ta từ những buổi đầu hết sức khó khăn. 

Kể như vậy để thấy rằng, từ buổi đầu đấu tranh giải phóng dân tộc cho đến ngày hôm nay, quan hệ Việt -Nga, cùng với thời gian, luôn "dày" lên. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt, mối quan hệ mà có lẽ hầu hết là những câu chuyện tích cực, những câu chuyện vui.    

PV: Theo ông, có sự khác biệt nào trong mối quan hệ Việt-Xô và Việt-Nga?   

TS Đỗ Sơn Hải: Quan hệ Việt -Xô hoàn toàn là mối quan hệ đồng minh, một mối quan hệ mang tính chất rất anh em, đồng chí. Nhưng nếu nhìn vào thực chất của mối quan hệ, ta thấy rằng, do những điều kiện vào thời điểm đó, thời điểm của "Chiến tranh lạnh", thời điểm mà Việt Nam tập trung mọi nguồn lực để giải phóng đất nước, thì mối quan hệ Việt -Xô cũng nằm trong quỹ đạo của mối quan hệ các nước XHCN, Liên Xô ủng hộ, giúp đỡ ta rất nhiều. Đây là mối quan hệ có sự tương hỗ nhất định. Việt Nam đứng ở vị trí tuyến đầu chống Mỹ mà Xô -Mỹ đối đầu thì rõ ràng trách nhiệm của Việt Nam không còn đơn thuần là giải phóng dân tộc, mà đó còn là trách nhiệm đối với cả khối XHCN. 

Bước sang giai đoạn mới, cả Nga lẫn Việt Nam đều đi theo hướng đổi mới, mà thay đổi lớn nhất là cả hai bên đều chuyển đổi nền kinh tế của mình theo hướng kinh tế thị trường. Ta thì có định hướng XHCN, còn về phía Nga thì tốc độ tư nhân hóa rất nhanh chóng. Chính vì thế, quan hệ Nga -Việt không chỉ là cho-nhận mà chuyển sang mối quan hệ cân bằng hơn. Cũng chính vì thế, về mặt hình thức, quan hệ Việt-Nga trầm lắng hơn quan hệ Việt -Xô. 

Có thể trong những ngày đầu nước Nga hiện đại ra đời, quan hệ Việt-Nga tương đối trì trệ. Suốt trong thập kỷ 90, trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Nga không thăng tiến được, không đạt được ngưỡng 1 tỷ USD. Điều này cũng dễ hiểu vì nước Nga khi đó gặp khó khăn và Việt Nam cũng có hướng đi mới trong quá trình đổi mới. Nhưng quan hệ giữa hai nước cũng không xấu đi. Đó là một điều kỳ lạ! Có nhiều lý do để giải thích cho điều này. Và một trong những lý do đó là cộng đồng người Việt ở Nga hiện nay còn rất đông và số người Nga ở Việt Nam cũng không ít.

Tuy nhiên, với bề dày lịch sử, thập kỷ 90 là giai đoạn chuẩn bị, tạo tiền đề mới cho mối quan hệ mới. Bắt đầu từ năm 2000 tới đây, gắn liền với nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống V.Pu -tin, Tổng thống Nga đầu tiên tới thăm Việt Nam, mối quan hệ Việt - Nga đã có nhiều tiến triển. Năm 2001, Việt Nam và Nga đã ký quan hệ đối tác chiến lược. Đây cũng là mối quan hệ đối tác chiến lược đầu tiên của Việt Nam. 

Tôi cho rằng, quan hệ Việt -Nga mới đúng thực chất. Vì ta giúp bạn, bạn giúp ta thì mới có sự cân đối và như thế mới đem đến cho hai bên sự hài lòng nhiều hơn là chỉ có một bên cho và một bên nhận. Ngay cả bên nhận lâu dần cũng có thể trở nên ỷ lại, nhờ vả và tư duy này vẫn còn đeo bám tới ngày hôm nay.

Tất nhiên, chúng ta không nên quá tham vọng là mối quan hệ Việt -Nga đi lên với tốc độ nhanh vì quan hệ giữa các nước trên thế giới hiện nay còn phụ thuộc vào mối lợi ích tương đồng của đôi bên. Nước Nga giúp gì cho Việt Nam và Việt Nam giúp gì cho nước Nga. Tuy nhiên, quan trọng nhất là mối quan hệ giữa hai nước đã có bề dày lịch sử, mà đặc biệt là bề dày về con người, tức nguồn lực. Vì thế, quan hệ Việt-Nga, sớm chiều sẽ có những bước phát triển mới.   

PV: Bên cạnh những yếu tố về lịch sử, theo ông, còn yếu tố nào đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ Việt -Nga?    

TS Đỗ Sơn Hải: Việt Nam có câu "Một lần bất tín, vạn lần bất tin". Trong mối quan hệ mà chưa một lần bất tín nào, tất nhiên ở đây không có gì là tuyệt đối nhưng không xảy ra việc gì quá lớn làm mình có thể đổ vỡ niềm tin, thì đương nhiên người ta cảm thấy mối quan hệ tin tưởng được. Và trên thực tế, ngay từ đầu, hai bên đều cố gắng làm việc đó, để giữ gìn mối quan hệ. Đó là sản phẩm cực kỳ quý giá mà quan hệ Việt -Nga sản sinh ra. Đó là sự tin cậy, trong quan hệ quốc tế gọi là "xây dựng lòng tin".   

PV: Theo ông, cộng đồng người Việt còn rất đông đảo ở Nga đóng vai trò gì trong việc bồi đắp mối quan hệ Việt -Nga?      

TS Đỗ Sơn Hải: Tôi nghĩ, cộng đồng người Việt ở Nga tương đối khác với cộng đồng người Việt ở các nước khác. Tôi là một trong những người nằm trong cộng đồng đó. Thời kỳ học tập, làm việc ở Nga thì thấy rằng, cộng đồng người Việt ở Nga có cảm giác không xa lạ lắm. Tất nhiên là xa quê rồi, nhưng cảm giác ở "xứ người" không như ở các nước Âu-Mỹ khác.

Thứ hai, cộng đồng người Việt khi xuất hiện ở Nga, hầu hết là cán bộ, sinh viên ở lại và sinh sống ở đó. Cùng đó là lực lượng lao động người Việt sang làm việc và cũng ở lại. Cộng đồng này rõ ràng có sự gắn bó rất chặt với quê hương. Vì khi sang Nga, họ vẫn còn "một nửa" ở nhà. 

Mô hình học tập, lao động ở Nga cũng khác với các nước. Nếu như ở các nước mang nặng tính thị trường thì ở Nga, thời kỳ Liên Xô, người lao động Việt Nam làm việc ở các nhà máy như các nhà máy ở nhà. Học tập thì được bạn bao cấp, thậm chí vượt trội, gấp đôi so với sinh viên bản xứ. Chính mô hình ấy khiến những người lao động, học tập ở Nga hiểu nước Nga rất nhiều. Chính vì thế, cộng đồng này sống và làm việc tại nước Nga không có cảm giác quá bỡ ngỡ, xa cách. Và họ cũng được người Nga giúp đỡ rất nhiều. Người Việt sống ở Nga rất bình yên như ở nhà mình.   

PV: Trong những thập kỷ 60, 70, 80, có một đội ngũ rất đông trí thức Việt Nam học tập tại Nga. Khi về nước, họ đã đưa văn hóa Nga vào Việt Nam, khiến văn hóa Nga rất gần gũi với Việt Nam. Đến giai đoạn hiện tại, ông còn nhận thấy dấu ấn của văn hóa Nga trong văn hóa Việt?   

TS Đỗ Sơn Hải: Ví dụ như tôi là một người học tập tại Nga, cho đến giờ nhìn lại chặng đường công tác của mình, chợt nhận ra, tác phong làm việc, lối tư duy của mình mang rất nhiều dáng dấp của người Nga. 

Nếu xét về mặt sư phạm, sư phạm của nước Nga là hàng đầu thế giới. Thế hệ của tôi có may mắn được học tập và làm việc ở một đất nước mà họ sẵn sàng trao cho mình gần như 100% lượng kiến thức mà mình mong muốn. Vấn đề chỉ là mình tiếp thu thế nào mà thôi. Vì thế, cộng đồng người Việt từng học ở Nga đều chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi tác phong làm việc, lối tư duy của người Nga. Và khi đem về Việt Nam tất nhiên sẽ có ảnh hưởng.

Sự tác động về văn hóa, không phải là đưa cái văn hóa ẩm thực hay nghệ thuật Nga vào Việt Nam. Như tôi, không phải lúc nào cũng hoài niệm về các món ăn Nga, những bài hát Nga nhưng cách thức làm việc, lối tư duy Nga thì rất khó quên, nó không trượt đi được. Hơn nữa, trong quá trình làm việc, mình lại bồi đắp thêm, tự chỉnh sửa hay nói cách khác là làm giàu thêm phong cách đó. Vì thế, nếu hỏi rằng, phong cách đó có thuần Nga không? Chắc chắn là không! Nhưng nó có phải của Nga không? Thì chắc chắn là có!

Ở chiều hướng khác, người Nga sang Việt Nam rất nhiều. Họ cũng đem văn hóa Nga vào. ở Hà Nội còn ít chứ vào TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa -Vũng Tàu, chúng ta sẽ nhận thấy nhịp thở của người Nga ngay. Tất nhiên, những thứ họ đem vào có tốt, có xấu, có làm văn hóa Việt xáo động. Vấn đề là mình hấp thu, tiếp biến thế nào lại là câu chuyện của nước mình.   

PV: Việt Nam và Nga đã nâng tầm quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện. Tuy nhiên, trên thực tế, những trao đổi về nhiều mặt của hai nước vẫn chưa xứng với tiềm năng. Theo ông, cần làm gì để mối quan hệ giữa hai nước đi vào thực chất hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của cả hai dân tộc?    

TS Đỗ Sơn Hải: Mối quan hệ Việt-Nga có nhiều tiềm năng và cần được thúc đẩy. Thế nhưng, tại sao cho đến giờ giữa lý thuyết và thực tế vẫn có độ vênh không nhỏ. Tôi nghĩ rằng, chính phủ hai nước có thừa quyết tâm và sẵn sàng ký kết những văn bản, thỏa thuận tạo điều kiện cho các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức thực hiện việc trao đổi. Nhưng ta phải thấy rõ rằng, để quan hệ Việt -Nga phát triển lên một mức cao mới, xứng với những gì mình đang kỳ vọng thì phải phụ thuộc vào từng con người. Có lẽ, việc làm đầu tiên hiện nay là công tác tuyên truyền. Nếu như bạn không nói, không kể thì thế hệ sau làm sao biết về mối quan hệ Việt -Nga. Thậm chí, sinh viên của mình kể được đủ tên 15 nước cộng hòa thuộc Liên bang Nga đã được coi là xuất sắc. Vấn đề trước hết là mình. Công tác tuyên truyền cần phải đặt lên hàng đầu. 

Thứ hai, hiện tại khả năng cạnh tranh của cả hai nền kinh tế đều còn ở mức độ nhất định. Vì thế, để các doanh nghiệp hai nước đầu tư vào nhau cần có những chính sách ưu đãi nhất định.   

PV: Xin cảm ơn ông!

HUY ĐĂNG (thực hiện)