Quá trình phát triển quan hệ Việt Nam - EU

Việt Nam-EU chính thức lập quan hệ ngoại giao cuối năm 1990. Trong quan hệ, đánh giá tổng quan thì EU đã thể hiện thiện chí đối với Việt Nam: Đồng ý để Việt Nam tham gia Hiệp định hợp tác ASEAN-EU, viện trợ phát triển cho Việt Nam thông qua các kế hoạch hợp tác chiến lược-CPS giai đoạn 1996-2000, 2001-2006 và 2007-2013, tháng 7-1995 ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam-EU.

Tháng 5-2005, Chính phủ đã ban hành “Chương trình hành động của Chính phủ về phát triển quan hệ Việt Nam-EU đến năm 2010 và định hướng tới 2015” nhằm chủ động phát triển quan hệ toàn diện với EU, coi EU là đối tác chiến lược lâu dài và quan trọng của nước ta.   

Gần 15 năm thực hiện Chương trình hành động, mối quan hệ giữa Việt Nam với EU đã phát triển toàn diện, điển hình là quan hệ thương mại hai chiều. Năm 2005, kim ngạch thương mại hai chiều là 6,818 tỷ USD, trong đó xuất khẩu 5,517 tỷ USD và nhập khẩu 1,301 tỷ USD; năm 2018, các con số tương ứng là 55,77 tỷ USD, 41,88 tỷ USD và 13,89 tỷ USD.

leftcenterrightdel
Với EVFTA và EVIPA, nông sản Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội vào thị trường EU. Ảnh: MINH THÀNH

Nội dung chính của EVFTA và EVIPA

Việt Nam và EU chính thức khởi động đàm phán EVFTA ngày 26-6-2012, kết thúc đàm phán ngày 1-12-2015, văn bản hiệp định đã được công bố ngày 1-2-2016. Ngày 26-6-2018, theo đề nghị của EU, hai bên thống nhất tách thành hai hiệp định: EVFTA và  EVIPA. Ngày 30-6-2019, hai bên đã ký kết EVFTA và EVIPA.

EVFTA và EVIPA là hai hiệp định có quan hệ hữu cơ với nhau, chất lượng cao, cân bằng về lợi ích giữa Việt Nam và EU, phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới.

EVFTA có 17 chương, 2 nghị định thư và một số biên bản ghi nhớ kèm theo bao gồm thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, các vấn đề pháp lý-thể chế.

Việt Nam và EU cam kết về thương mại dịch vụ, đầu tư nhằm tạo ra một môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp hai bên. Cam kết của Việt Nam đi xa hơn cam kết trong WTO. Cam kết của EU cao hơn cam kết trong WTO và tương đương với mức cam kết cao nhất của EU tại các FTA gần đây của EU.

Việt Nam và EU thống nhất các nội dung tương đương với Hiệp định mua sắm của Chính phủ (GPA) của WTO. Với một số nghĩa vụ như đấu thầu qua mạng, thiết lập cổng thông tin điện tử để đăng tải thông tin đấu thầu... Việt Nam có lộ trình để thực hiện. EU cam kết hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam để thực thi các nghĩa vụ này. Việt Nam bảo lưu có thời hạn quyền dành riêng một tỷ lệ nhất định giá trị các gói thầu cho nhà thầu, hàng hóa, dịch vụ và lao động trong nước.

Các cam kết về sở hữu trí tuệ của Việt Nam gồm cam kết về bản quyền, phát minh, sáng chế, cam kết liên quan tới dược phẩm và chỉ dẫn địa lý về cơ bản phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.

Về chỉ dẫn địa lý, Việt Nam sẽ bảo hộ trên 160 chỉ dẫn địa lý của các nước thành viên EU. EU sẽ bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam liên quan tới nông sản, thực phẩm, tạo điều kiện cho một số nông sản của Việt Nam xây dựng và khẳng định thương hiệu tại thị trường EU.

Khi hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 7 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.

Thời gian cắt giảm thuế quan đối với hàng nhập khẩu của Việt Nam từ EU chậm hơn; khi hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu với 48,5% số dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch nhập khẩu. Sau 7 năm, Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu 91,8% số dòng thuế, tương đương 97,1% kim ngạch nhập khẩu từ EU. Sau 10 năm, xóa bỏ thuế nhập khẩu khoảng 98,3% số dòng thuế, tương đương 99,8% kim ngạch nhập khẩu. Đối với khoảng 1,7% số dòng thuế còn lại của EU, lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu dài hơn 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan theo cam kết WTO. 

EVIPA ngoài những nội dung như các hiệp định bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã ký với các nước khác, khẳng định nguyên tắc về phát triển bền vững được quy định tại EVFTA, như thu hút thương mại đầu tư nhưng vẫn bảo đảm duy trì mức độ bảo vệ môi trường, cam kết chống biến đổi khí hậu, bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên rừng, nguồn tài nguyên sinh vật biển, khuyến khích thương mại và đầu tư hướng tới phát triển bền vững.

EVIPA có quy định về việc quản lý của hai bên nhằm đạt mục tiêu chính sách như bảo vệ sức khỏe cộng đồng, an toàn, môi trường hoặc đạo đức công cộng, bảo vệ xã hội và người tiêu dùng, bảo vệ đa dạng văn hóa.

Triển vọng thương mại và đầu tư

Đối với thương mại

Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc tiếp diễn với kịch bản khó lường trước thì EVFTA như luồng gió trong lành đối với việc mở rộng nhanh chóng hơn quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá tác động EVFTA đối với Việt Nam: Nếu tận dụng tốt cam kết cắt giảm thuế quan và phi thuế quan thì xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng thêm trung bình 5,21-8,17% giai đoạn 2019-2023, từ 11,12-15,27% giai đoạn 2024-2028 và 17,98-21,95% giai đoạn 2029-2033.

EVFTA tác động không đều đối với các nhóm hàng xuất khẩu sang EU. Nông sản, lâm sản, hàng dệt may, da giày, dịch vụ vận tải, tài chính sẽ có tốc độ tăng trưởng khá cao; trong khi sản phẩm gỗ, giấy, khoáng sản sẽ giảm. Nhóm hàng được dự báo tăng nhập khẩu nhiều nhất từ EU là phương tiện và thiết bị vận tải, máy móc thiết bị; điện thoại và linh kiện điện tử; thực phẩm chế biến, đồ uống; thuốc lá và hóa chất.

Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng nhanh hơn kim ngạch nhập khẩu từ EU, nên EVFTA tiếp tục làm gia tăng thặng dư thương mại của Việt Nam với EU.

Việc cắt giảm thuế quan theo cam kết EVFTA có tác động đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Một mặt sẽ giảm thu thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu trong ngắn hạn, nhưng mặt khác sẽ tăng thu nội địa do tác động tích cực của thương mại, đầu tư và mở rộng thị trường nội địa.

EVFTA sẽ làm gia tăng tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2019-2023 dự báo là 2-3%.

Đối với đầu tư

Đồng Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) Nicolas Audier nhận định: “Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU sẽ làm thay đổi bức tranh đầu tư châu Âu tại Việt Nam trong thời gian tới”. Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn hơn nên nhiều doanh nghiệp châu Âu đã lập văn phòng đại diện và chi nhánh, hoặc tìm kiếm đối tác tại Việt Nam nhằm hưởng lợi từ EVFTA.

EVFTA và EVIPA tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp EU tranh thủ cơ hội mới tiếp cận thị trường gần 100 triệu dân với thu nhập gia tăng tốc độ khá, có vài chục triệu người thuộc tầng lớp trung lưu và giàu có để khởi động nhiều dự án FDI, nhất là các dự án công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, công nghệ tương lai như: Trí tuệ nhân tạo, robot, xây dựng thành phố thông minh, năng lượng điện gió, điện mặt trời, diện tái tạo thích ứng với định hướng thu hút FDI thế hệ mới của Việt Nam.

Để thu hút nhiều dự án FDI từ EU, trong đó có các dự án quy mô lớn thì cần lưu ý đến đặc điểm của các tập đoàn kinh tế hàng đầu của EU khi đầu tư ra nước ngoài, đáp ứng yêu cầu của họ về tính minh bạch và công khai của luật pháp, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chống làm hàng nhái, hàng giả, ăn cắp bản quyền, chống tham nhũng, và thủ tục hành chính đơn giản với thời gian ngắn nhất. Đó cũng là nguyên nhân chủ yếu vì sao các nhà đầu tư EU và Mỹ chưa có vị thế cao trong FDI của nước ta.

EVFTA và EVIPA tác động đến thu hút FDI từ các quốc gia khác nhờ việc mở rộng không gian kinh tế của Việt Nam, giảm thuế quan xuống 0% và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan với thị trường lớn thứ hai thế giới-EU. Hiện nay đã có sự dịch chuyển ngày càng nhiều doanh nghiệp FDI tại Trung Quốc sang nước thứ ba, trong đó Việt Nam được ưu tiên, với EVFTA và EVIPA xu hướng này dự báo sẽ gia tăng.

Nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã tìm đến Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư một số ngành, lĩnh vực mà nước ta đang có lợi thế so với Trung Quốc, tận dụng quy định về xuất xứ hàng hóa để đầu tư sản xuất nguyên, phụ liệu hàng xuất khẩu sang EU, vừa tránh được áp lực tăng thuế suất hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường Mỹ, vừa có lợi cho Việt Nam giảm dần nhập khẩu từ Trung Quốc, làm cho cán cân thương mại giữa hai nước trở nên cân bằng.

EVFTA và EVIPA đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, luật pháp, thực hiện Chính phủ điện tử, nâng cao trình độ chuyên nghiệp và đạo đức của đội ngũ công chức, viên chức, cải cách thủ tục hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và trách nhiệm của quan chức Nhà nước. Những tiến bộ về thể chế, bộ máy và thủ tục hành chính đã được doanh nghiệp và nhà đầu tư đánh giá cao, nhưng vẫn còn nhiều khiếm khuyết nên môi trường kinh doanh chưa đáp ứng đòi hỏi của người dân và doanh nghiệp.

Tại phiên họp trực tuyến sáng 4-7-2019 của Chính phủ với các địa phương, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhận định: "Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát kiểm soát tốt. Tăng trưởng GDP, thu ngân sách, đầu tư thương mại, xuất nhập khẩu, phát triển doanh nghiệp đều đạt khá". Thủ tướng đồng thời cảnh báo các tư lệnh ngành, lãnh đạo địa phương cần tập trung vào các tồn tại, hạn chế yếu kém, để có đối sách xử lý nhanh, không để vướng mắc kéo dài; việc cắt giảm điều kiện kinh doanh chưa có bước tiến thực chất, nhất là các điều kiện kiểm tra chuyên ngành; tinh thần làm việc của công chức, viên chức đại bộ phận là tốt nhưng còn một bộ phận nhũng nhiễu, tiêu cực, lơ là, bao gồm cả lãnh đạo các cơ quan, đơn vị.

Nếu vẫn tiếp tục kéo dài tình trạng trên đây thì có nguy cơ không thể tranh thủ tốt cơ hội do EVFTA và EVIPA mang lại cho Việt Nam.

Giáo sư, TSKH NGUYỄN MẠI