Rudyard Kipling từng được chính thể Anh trọng vọng vì ông rất say mê tư tưởng đế chế của thời đại Victoria. Nhưng cũng chính vì thế nên rốt cuộc, ông đã bị không ít đồng nghiệp phê phán và lảng tránh. Cách đây 85 năm, tháng 1-1936, khi Rudyard Kipling qua đời, gần như không một đồng nghiệp nào có mặt trong đám tang được tổ chức rất trọng thể của ông...
Cha mẹ nhà văn tương lai đã gặp nhau lần đầu bên bờ hồ Rudyard ở Anh. Số phận đã dẫn gia đình giảng viên Trường Mỹ thuật John Lockwood Kipling sang Bombay (nay là Mumbai, Ấn Độ) và ở đó, hai vợ chồng đã sinh ra một cậu con trai. Và họ đặt tên là Joseph Rudyard Kipling để nhớ lại “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”.
 |
Nhà văn Anh Rudyard Kipling. Ảnh: Wikipedia |
Ngay từ thuở ấu thơ hạnh phúc, Rudyard đã tiếp xúc chủ yếu chỉ với đội ngũ phục vụ trong nhà là người Ấn và nhũ mẫu là một phụ nữ Bồ Đào Nha sùng đạo. Ngôn ngữ thân thuộc nhất của cậu khi đó là tiếng Hindustani rất phổ biến ở thuộc địa này. Còn về phần tiếng Anh thì cậu phải học riêng. “Đừng làm cha mẹ buồn, con nhé, phải trò chuyện với họ bằng tiếng Anh!”-nhũ mẫu yêu quý luôn động viên cậu như vậy. Một anh hầu người Ấn được giao nhiệm vụ thường xuyên mang Rudyard đi chơi. Bế cậu bé trên tay, anh đưa cậu vào thăm các ngôi đền Ấn giáo, nơi trong bóng tối mờ ảo hiện lên rất rạng rỡ những gương mặt thần thánh lành hiền...
Những ấn tượng tuổi thơ của nhà thơ tương lai cực kỳ sống động. Mỗi khi gió biển thổi mạnh, những quả dừa lộp độp rơi. Để tránh bị quả dừa to nặng làm cho bươu đầu, phải chạy thật nhanh ra chỗ trống. Quanh năm rực rỡ những loài cây thực là với những bông hoa nở ngay ở trên thân. Thời tiết ở đây chỉ có hai mùa: Mùa mưa và mùa khô, mùa nào cũng cực kỳ nóng bức. Món quà ngon nhất đối với cậu bé là miếng đá trong cốc nước hoa quả.
Trên những đỉnh tháp ở gần nhà cậu bé, nơi những người theo Hỏa giáo thường mang hài cốt của thân nhân tới thờ, lúc nào cũng đông đúc những đàn quạ tới hoành hành. Và trên sân nhà của gia đình Kipling thường thấy những “tàn dư” của chúng rơi xuống. Đêm đêm những con nhái bén nỉ non kêu. Khi đi câu cá, nếu thấy ở bên cạnh có con cá sấu ngoi lên thì cần phải chọc gậy vào giữa đôi mắt của nó thì nó sẽ biến đi ngay...
Đã trải qua một tuổi thơ như thế thì không thể nào không thèm muốn những sự phi thường. Tuy nhiên, nhìn bên ngoài thì ở Joseph Rudyard Kipling lại không có cái gì mang dáng vẻ phi thường cả. Từ tuổi 25, ông đã không thay đổi nữa. Một người thấp bé, mặt tròn, sớm phải đeo kính, mang một bộ ria mép kiểu Anh rất chỉn chu, hút thuốc lá nhiều (thoạt tiên là hút xì gà, rồi sau hút thuốc lá sợi bằng tẩu). Không phải là một siêu nhân mà chỉ là một người Anh điển hình: Nhà báo, nhà thơ, một người bảo thủ lãng mạn...
Người Anh nào cũng phải được rèn luyện trong thiếu thốn. Ngay từ tuổi thiếu niên, Rudyard đã được bố mẹ gửi cho đi học trong một học xá theo đạo Calvin ở Anh, tại thành phố Portsmouth. Nhà thơ tương lai cảm thấy kinh hãi cái đất nước sương mù mưa gió thổi những cơn cuồng phong xám xịt lạnh lẽo. Chàng trai gọi nơi trọ học của mình là “Ngôi nhà tuyệt vọng”. Kèm cặp cậu là một nữ giáo viên sùng tín, sợ nhất trên đời là những đau đớn dưới địa ngục và luôn cấm đoán mọi lạc thú: “Bà ấy đối xử với chúng tôi rất thô bạo, hành hạ chúng tôi một cách rất tinh vi. Sau khi biết bà ta, tôi bắt đầu xem xét lại những suy tư giả dối của mình và đó là sự bắt đầu của sáng tác văn học”. Cũng chỉ vì bà giáo đó mà về sau, cho tới cuối đời, Rudyard đã bị mắc chứng mất ngủ...
Năm 1877, Rudyard được cha mẹ cho vào học ở Trường Cao đẳng Quân sự tư nhân Devon với hy vọng nhờ thế, lớn lên, có thể vào học ở một học viện quân sự danh giá. Hiệu trưởng Trường Devon là một người bạn của cha Rudyard. Chính ông đã động viên cậu bé thử sức mình trong những sáng tác đầu tay...
Do bị cận thị nên Rudyard đã không vào được học viện quân sự. Để thi vào các trường đại học khác, Rudyard lại không có được văn bằng cần thiết vì Trường Devon chỉ có thể cấp bằng tốt nghiệp đủ tiêu chuẩn thi vào các học viện quân sự. Thế là tới năm 1882, chàng trai trẻ đã trở về nhà mình ở xứ thuộc địa Ấn Độ và bắt đầu làm phóng viên cho tờ báo Công dân và Quân sự ở Lahore (nay thuộc Pakistan) theo sự gợi ý của cha (ông cụ rất ấn tượng với cách con trai kể chuyện về đời sống trong Trường Devon). Ngoài các phóng sự, cây bút trẻ chỉ có thể công bố những tác phẩm nho nhỏ. Đó là những bài thơ và truyện ngắn. Và ngay lập tức được độc giả hoan nghênh. Từ năm 1883, các tác phẩm của Rudyard đã bắt đầu bán chạy...
Khác với những nhà du lịch chuyên nghiệp, Rudyard đối với xứ sở Ấn Độ ngay từ đầu đã mang tâm thế người nhà. Ông biết đất nước châu Á này như chính đất mẹ của mình. Ông thấm thía xứ sở này một cách hài hòa, ruột thịt. Rudyard không có chút ảo tưởng nào về cảnh đời thường của những người Ấn bình dân. Ông biết là họ sống khổ sở, đói nghèo. Nhưng ông lại tin tưởng một cách chân thành rằng, chỉ có sự lao động hết mình (“gánh nặng của người da trắng”) mới có thể làm lay chuyển khối khổng lồ của nền văn minh cổ kính đó. Ông tin vào sự ảnh hưởng tốt đẹp của trật tự thực dân và sứ mệnh văn hóa của người châu Âu... Và ông ca ngợi điều đó trong văn thơ, trong những tác phẩm có chất lượng nghệ thuật rất cao. Có thể đánh giá theo nhiều cách các quan điểm chính trị của Rudyard nhưng cuốn thứ nhất và thứ hai của bộ “Sách của rừng rậm” cũng như các câu chuyện cổ tích mà ông đã viết cho trẻ em và cả người lớn nữa... đích thực là những kiệt tác khó ai vượt lên trên được...
Rudyard Kipling nổi tiếng với khả năng quan sát chi tiết, trí tưởng tượng phong phú, cũng như tài năng kể chuyện xuất sắc. Ông có những đóng góp rất lớn vào kho tàng ngôn ngữ Anh. Trong hai tập “Sách của rừng rậm” tràn đầy những tư tưởng sâu sắc về sự sống khởi nguyên có tầng bậc giá trị rõ ràng và hết sức đơn giản mà nền văn minh hiện đại không thể chạm đến được. Tiểu thuyết “Kim” mà Rudyard đã cho xuất bản năm 1901 cho tới hôm nay vẫn được đánh giá là cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Anh hay nhất về Ấn Độ và cũng là một trong những tiểu thuyết Anh hay nhất nói chung. Nhân vật chính trong tiểu thuyết này luôn do dự giữa những giá trị văn hóa Đông-Tây và cuối cùng dù đã chọn phương Tây nhưng vẫn canh cánh bên lòng một nỗi buồn nhớ phương Đông với ý thức cay đắng rằng: “Đông là Đông và Tây là Tây, chẳng bao giờ tay nắm trong tay!”.
Sự mạch lạc điêu luyện trong các bản ballade, từng tạo cho ông danh tiếng “Rudyard thép”, được sinh ra như một sự chối bỏ có ý thức chất thơ êm ả. Những dòng thơ dài của Rudyard, thoạt nhìn có vẻ như khó đọc. Thế nhưng, chỉ cần đọc nó theo nhịp là lập tức sẽ vang lên giai điệu hành khúc...
Năm 1902, Rudyard chuyển sang Anh sinh sống, không phải trở về mà là chuyển! Một năm trước đó, Nữ hoàng Victoria, từng trị vì từ năm 1837, đã tạ thế. Và ngay lập tức giới tinh hoa văn hóa Anh đã nổi dậy phê phán những biểu tượng của thời đại Victoria, từ phong cách sống tới các tác phẩm văn học cũng như những tác giả đã tận tụy phục vụ cho thời đại thực dân đầy mâu thuẫn của vị nữ hoàng này. “Cháy thành vạ lây”, trong suốt một thời gian dài, những loạt pháo thần công đã nhằm vào Rudyard, vốn vẫn được coi là người luôn luôn đề cao sự trung thành với đế chế Anh: Một tài năng như thế mà lại cổ xúy cho một tư tưởng đế quốc như thế! Người ta vạch lại mọi việc liên quan tới Rudyard-tập thơ “Những bài ca doanh trại”, những lời biện hộ cho cuộc chiến của Anh với người Boer (1899-1902) trong các bài báo mà ông đã viết với tư cách phóng viên mặt trận, thậm chí cả danh hiệu Hiệp sĩ mà ông đã từ chối không nhận, những bài phát biểu nóng bỏng trước Chiến tranh thế giới thứ nhất... Báo chí Anh khi đó tràn ngập những bài đầy giận dữ và những tranh biếm họa sâu cay đối với Rudyard... Thế nhưng, nhà thơ vẫn bình thản tiếp tục sống và viết, viết rất nhiều. Ông sống thọ, mặc dầu sức khỏe không ngừng suy giảm những năm tháng cuối đời... Năm 1907, Rudyard được trao giải Nobel văn chương... Mặc dù là người Anh đầu tiên được hưởng vinh dự này nhưng Rudyard vẫn không được các đồng nghiệp của mình lượng thứ... Cũng trong năm 1907, Rudyard đã được trao các giải thưởng của nhiều trường đại học tổng hợp ở Paris, Strasbourg, Athens, Toronto... Rudyard cũng được trao nhiều học vị danh dự của các trường đại học: Oxford, Cambridge, Edinburgh và Durham...
Rudyard đã tiếp tục sáng tác cho tới những năm 30 của thế kỷ trước, tuy không còn được thành công như thời trai trẻ. Ông qua đời ngày 18-1-1936 tại London vì chảy máu não sau một ca phẫu thuật. Lễ mai táng theo nghi lễ quốc gia được tổ chức tại Góc Thi nhân trong tu viện Westminster rất trọng thể. Thế nhưng, các đồng nghiệp lại không ai tới tiễn biệt ông. Chữ tài liền với chữ tai là thế...
MINH HUYỀN