Đây không đơn thuần là bản trình bày các nguyên tắc, tham vọng và ưu tiên định hướng cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Thay vào đó, nó giống như bản tuyên ngôn vạch ra một dự án hoàn toàn khác biệt cho nước Mỹ, định hình chính sách đối ngoại và quốc phòng cho nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Donald Trump. So với những văn kiện trước đây, chiến lược này có tầm bao trùm hẹp hơn, hướng nội nhiều hơn là khuếch trương tham vọng toàn cầu.

Sự thay đổi có tính bước ngoặt trong chiến lược mới này là việc ông Donald Trump không còn định vị nước Mỹ như “cảnh sát toàn cầu” theo truyền thống của những người tiền nhiệm. Nước Mỹ từ nay sẽ “không quản”, “không bao đồng” những chuyện của thế giới mà chỉ tập trung vào các vấn đề động chạm đến lợi ích sát sườn, đúng như tinh thần khẩu hiệu tranh cử của ông Donald Trump là “nước Mỹ trước hết”.

leftcenterrightdel

Tổng thống Mỹ Donald Trump phát biểu tại Nhà Trắng. Ảnh: Reuters

Theo tư duy hướng nội đó, chính sách đối ngoại được xác định là chỉ “bảo vệ lợi ích cốt lõi của quốc gia” và đây là “trọng tâm duy nhất”. Chiến lược an ninh mới khẳng định “công việc nội bộ của các quốc gia khác chỉ là mối quan tâm khi hoạt động của họ trực tiếp tác động đến lợi ích Mỹ”, đồng thời chỉ trích “giới tinh hoa chính sách đối ngoại Mỹ” theo đuổi “sự thống trị vĩnh viễn của Mỹ trên toàn thế giới” và ràng buộc Mỹ với cái gọi là “thương mại tự do”, “chủ nghĩa toàn cầu”, “chủ nghĩa xuyên quốc gia”, những thứ mà Nhà Trắng cho rằng đã làm suy yếu tầng lớp trung lưu và xói mòn chủ quyền của Mỹ.

 Lần đầu tiên trong hơn hai thập kỷ, chống lực lượng Hồi giáo cực đoan-trụ cột trong những học thuyết an ninh của Mỹ sau vụ khủng bố đẫm máu ngày 11-9-2001 bị đẩy xuống hàng thứ yếu, nhường vị trí trung tâm cho vấn đề đối nội là di cư ồ ạt và an ninh biên giới. Trong tư duy mới của Washington, phần lớn rủi ro an ninh hiện nay không xuất phát từ những chiến trường xa xôi mà từ chính các tuyến biên giới và không gian lân cận của nước Mỹ. Điều này biến kiểm soát biên giới và thực thi luật nhập cư trở thành cơ sở định hình cho chính sách an ninh quốc gia.

Điều này dẫn tới sự đoạn tuyệt của Washington với tư duy Trung Đông-địa bàn hoạt động của nhiều tổ chức khủng bố-phải luôn là ưu tiên trong chính sách của Mỹ. Những ngày Trung Đông thống trị chính sách đối ngoại Mỹ đã qua. Không phải vì khu vực này không còn quan trọng mà vì trong nhận thức của Washington hiện nay, nó không còn là mối đe dọa thường trực hay nguy cơ thảm họa cận kề như trước đây.

Đi liền với việc hạ thấp vai trò của Trung Đông, Tây bán cầu được đẩy lên thành “tuyến đầu” với Mỹ. Đây là khu vực từ lâu được Washington xem là “sân sau”, nhưng hiếm khi được đặt ở vị trí trung tâm trong các văn kiện an ninh chiến lược trước đây. Lần này, Washington khẳng định Mỹ “phải giữ vị thế áp đảo tại Tây bán cầu như một điều kiện thiết yếu cho an ninh và thịnh vượng”, từ đó cho phép Washington “tự tin hành động ở mọi nơi cần thiết”. Vì thế, Mỹ phải ngăn chặn “ảnh hưởng đối địch từ bên ngoài” ở khu vực Tây bán cầu, bao gồm việc kiểm soát căn cứ quân sự, cảng biển, cơ sở hạ tầng then chốt và các tài sản chiến lược. Dù Washington không nói thẳng nhưng ai cũng hiểu, “đối địch” ở đây chính là Trung Quốc với vai trò ngày càng tăng tại Mỹ Latin, yếu tố mà Mỹ coi là thách thức trực tiếp với an ninh nội địa.

Điều này dẫn đến những tác động sâu sắc với thế bố trí lực lượng quân sự, hoạt động ngoại giao và phân bổ nguồn lực. Thay vì dàn trải lực lượng tại các chiến trường xa xôi, Mỹ sẽ chỉ chú tâm xây dựng “vành đai an ninh” xung quanh lãnh thổ của mình. Chỉ một ngày sau khi chiến lược an ninh quốc gia mới được công bố, Lầu Năm Góc đã chính thức cho ra mắt Bộ tư lệnh Tây bán cầu với nhiệm vụ phòng thủ lãnh thổ nước Mỹ, hỗ trợ các hoạt động cứu trợ nhân đạo và khắc phục hậu quả thiên tai như cháy rừng, bão, lũ, không chỉ ở Mỹ mà còn ở cả các nước láng giềng và các quốc gia ở Nam Mỹ. Bộ tư lệnh mới hợp nhất lục quân Bắc Mỹ, lục quân Nam Mỹ và nhiều đơn vị hiện trực thuộc Bộ tư lệnh Lực lượng lục quân dưới một cơ cấu thống nhất.

Khi an ninh biên giới là ưu tiên hàng đầu và Tây bán cầu là “chiến trường” chủ yếu thì mối quan tâm với khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, châu Âu và Trung Đông sẽ phải xếp phía dưới. Thêm vào đó, trong chiến lược mới này, Mỹ không còn coi Nga và Trung Quốc là kẻ thù hay địch thủ mà giữ tông điệu ôn hòa về những nước này, cho thấy Mỹ tìm cách tranh thủ Nga, trong khi vừa cạnh tranh chiến lược vừa thúc đẩy hợp tác với Trung Quốc. Đây thực sự là cú sốc với các đồng minh châu Âu vốn coi quan hệ xuyên Đại Tây Dương và ngăn chặn Nga là nền tảng trong học thuyết an ninh của mình. 

Không những thế, chiến lược an ninh mới của Mỹ lại sử dụng những lời lẽ gay gắt chỉ trích chính sách nhập cư, tình trạng đàn áp phe đối lập chính trị, hạn chế ngôn luận, tỷ lệ sinh giảm mạnh của châu Âu, đồng thời cảnh báo khu vực này có thể trở nên “không thể nhận ra trong vòng 20 năm hoặc sớm hơn” nếu không thay đổi ngay bây giờ. Đây là lời cảnh tỉnh đau đớn và bàng hoàng với châu Âu, cho thấy những khác biệt đáng kể giữa quan điểm và tầm nhìn của Washington với các đồng minh bên kia bờ Đại Tây Dương.

Dẫu còn nhiều điểm gây tranh luận nhưng có một điều rõ ràng: Học thuyết an ninh của Mỹ đã được viết lại. Nó sẽ định hình lại tầm nhìn và chiến lược toàn cầu của Mỹ trong tương lai.

TƯỜNG LINH