QĐND - Sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020” vào tháng 6-2006, công nghệ vệ tinh của Việt Nam đã liên tục đạt được những thành tựu nổi bật: Trung tâm Vệ tinh Quốc gia (VNSC) được thành lập; các dự án phóng vệ tinh viễn thông Vinasat 1, Vinasat 2, các vệ tinh quan sát Trái đất VNREDSat-1, VNREDSat-1B… được phê duyệt và tiến hành. Đặc biệt, dự án xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đã được chính thức khởi công tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc. Đây là một trong những dự án được đầu tư lớn nhất trong lĩnh vực khoa học công nghệ của Việt Nam trong 35 năm qua. Trung tâm là nơi sản xuất các vệ tinh nhỏ phục vụ nhu cầu dự báo thời tiết, giám sát, thăm dò, tìm kiếm, cứu nạn, biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên thiên nhiên và giám sát môi trường… Khi hoàn thành vào năm 2017, Việt Nam sẽ có trung tâm vũ trụ hiện đại hàng đầu Đông Nam Á.
Phóng viên Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần đã có cuộc phỏng vấn PGS, TS Phạm Anh Tuấn, giám đốc VNSC, xung quanh câu chuyện phát triển và ứng dụng thành tựu của công nghệ vũ trụ tại Việt Nam.
Phóng viên (PV): Ngành công nghệ vũ trụ Việt Nam hiện đang đứng ở vị trí nào so với khu vực và thế giới, thưa ông?
 |
PGS, TS Phạm Anh Tuấn.
|
PGS, TS Phạm Anh Tuấn: Thực chất, trình độ công nghệ vũ trụ của Việt Nam hiện mới ở mức trung bình của khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có cách tiếp cận công nghệ vũ trụ khác nhau. Ví dụ Thái Lan, Phi-líp-pin (Phillipines) tập trung vào mảng ứng dụng công nghệ vũ trụ. Trong khi Ma-lai-xi-a (Malaysia), In-đô-nê-xi-a (Indonesia) phát triển vệ tinh quan sát Trái đất riêng. Riêng đối với Việt Nam, Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020” trong đó xác định rõ mục tiêu cơ bản là: Từng bước làm chủ công nghệ chế tạo các trạm mặt đất, tự chế tạo các trạm mặt đất có giá cạnh tranh; làm chủ công nghệ vệ tinh nhỏ, tự thiết kế và chế tạo vệ tinh nhỏ quan sát Trái đất; làm chủ được công nghệ và kỹ thuật tên lửa; đào tạo được đội ngũ cán bộ có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ vũ trụ ở Việt Nam; nâng cấp hạ tầng cơ sở ban đầu; chế tạo và phóng thêm một số vệ tinh nhỏ quan sát Trái đất, thay thế một phần ảnh vệ tinh của nước ngoài. Tất cả nhằm đạt trình độ trung bình khá trong khu vực về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ.
PV: Kể từ khi chiến lược công nghệ vũ trụ được phê duyệt, đến nay, chúng ta đã làm được những gì, thưa ông?
PGS, TS Phạm Anh Tuấn: Ngành công nghệ vũ trụ đã có những bước thành công đáng kể. Về vệ tinh viễn thông, chúng ta đã có Vinasat 1, Vinasat 2 là hai vệ tinh viễn thông. Vệ tinh quan sát Trái đất chúng ta đã có VN Redsat 1 được phóng năm 2013. Đặc biệt, chúng ta đã chế tạo được vệ tinh “Made in Vietnam” PicoDragon phóng lên năm 2013 và gửi được tín hiệu về Trái đất.
Trong lĩnh vực ứng dụng, ảnh vệ tinh đã được ứng dụng tại các bộ, ngành, địa phương. Trong nghiên cứu khoa học, từ năm 2008, Chính phủ đã phê duyệt chương trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ vũ trụ quốc gia và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là cơ quan chủ trì.
Trong thời gian qua, chúng ta cũng tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế. Chúng ta đã ký kết hợp tác với Cơ quan hàng không vũ trụ nhật Jaxa, Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ NASA và sắp tới sẽ là cơ quan hàng không của Pháp và Nga. Đây là những cơ quan vũ trụ hàng đầu thế giới và trước đây chúng ta hầu như không có sự kết nối. Chúng ta đã triển khai những dự án quan trọng như dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam với số vốn đầu tư 600 triệu USD từ nguồn vốn ODA của Nhật Bản và vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Đây là dự án được đầu tư lớn nhất và bài bản nhất của ngành khoa học và công nghệ Việt Nam trong 35 năm qua. Dự án này được xây dựng đồng bộ với 3 phần, trong đó phần 1 là tổ hợp hạ tầng được xây dựng tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc. Phần thứ hai là đào tạo nhân lực cho ngành công nghệ vũ trụ ở Việt Nam gồm việc đào tạo kỹ sư, thạc sĩ tại ba trường đại học là: Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, Trường Đại học Công nghệ của Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Đại học Quốc tế của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng thông qua dự án, chúng tôi đã cử 35 kỹ sư đi học khóa thạc sĩ về công nghệ vệ tinh tại Nhật Bản. Trong quá trình học tập, các bạn này đã học chuyển giao công nghệ, tham gia chế tạo vệ tinh MicroDragon trọng lượng 50kg và dự kiến phóng vào đầu năm 2018. Thông qua dự án, phía Nhật Bản đã thống nhất chuyển giao công nghệ hai vệ tinh. Vệ tinh thứ nhất LOTUSat-1 được các chuyên gia Nhật Bản thiết kế. Việc lắp ráp, thử nghiệm được thực hiện với sự tham gia của ê kíp kỹ sư Việt Nam, dự kiến phóng vào tháng 3-2019. Vệ tinh thứ hai LOTUSat-2 được thiết kế lắp ráp, thử nghiệm tại Việt Nam và dự kiến phóng vào đầu năm 2022.
 |
Vinasat 1 - vệ tinh viễn thông địa tĩnh đầu tiên của Việt Nam được phóng vào vũ trụ lúc 22 giờ 16 phút ngày 18-4-2008. Ảnh: VNSC
|
Khi hoàn thành toàn bộ các hạng mục thuộc dự án vào năm 2020, chúng tôi có thể khẳng định Việt Nam sẽ trở thành tốp đầu của Đông Nam Á trong lĩnh vực này. Đây sẽ là một trung tâm nghiên cứu công nghệ vũ trụ hiện đại nhất Đông Nam Á.
PV: Các vệ tinh sắp được phóng là những minh chứng cho thành tựu của ngành công nghệ vũ trụ Việt Nam. Những vệ tinh này sẽ giúp ích gì cho công tác nghiên cứu khoa học và các hoạt động kinh tế, xã hội, thưa ông?
PGS, TS Phạm Anh Tuấn: Về vệ tinh MicroDragon, nhóm 35 cán bộ đi học thạc sĩ ngành công nghệ vũ trụ tại Nhật Bản đang trực tiếp thiết kế, chế tạo, thử nghiệm vệ tinh này dưới sự hướng dẫn của các giáo sư của 5 trường đại học hàng đầu Nhật Bản. Vệ tinh này có kích thước 50cm x 50cm x 50cm, khối lượng khoảng 50kg. Vệ tinh có nhiệm vụ chính là quan sát vùng biển ven bờ nhằm đánh giá chất lượng nước, định vị nguồn thủy sản, theo dõi sự thay đổi các hiện tượng xảy ra ở vùng biển ven bờ để phục vụ cho ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam. Ngoài ra, nhiệm vụ phụ của vệ tinh này là lưu trữ và vận chuyển dữ liệu quan trắc từ mặt đất và thí nghiệm khoa học trong môi trường vũ trụ.
Vệ tinh LOTUSat-1 nặng 600kg, gấp 4 lần VNRED Sat-1, với công nghệ hiện đại hơn là công nghệ radar, nhờ đó, có thể chụp ảnh trong mọi điều kiện thời tiết. Độ phân giải cũng cao hơn. Nếu VNRED Sat-1 có khả năng chụp các vật thể từ 2,5m thì LOTUSat-1 có thể phát hiện các vật thể từ 1m trở lên. Vệ tinh này do Nhật Bản chế tạo với sự tham gia của các kỹ sư Việt Nam. Đến LOTUSat-2, việc thiết kế, chế tạo sẽ được thực hiện ở Việt Nam, do đội ngũ người Việt thực hiện, đánh dấu một bước tiến trong khả năng làm chủ công nghệ vũ trụ của Việt Nam.
Hai vệ tinh này sẽ đưa ra các dữ liệu góp phần tăng hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, tiết kiệm 150 triệu USD/năm cho Việt Nam trong việc giảm thiệt hại bởi thiên tai. Trong khi đó, tổng trị giá để hoàn thành dự án vào khoảng 600 triệu USD chi phí cho vệ tinh, đào tạo nhân lực và các trạm vận hành mặt đất. Hai vệ tinh dự kiến sẽ hoạt động trong khoảng 8 năm kể từ khi được phóng lên quỹ đạo.
PV: Công nghệ vũ trụ của Việt Nam được đánh giá là đi sau các quốc gia tiên tiến tới 30-40 năm. Tuy nhiên, trong một khoảng thời gian rất ngắn, chúng ta đã và đang vượt lên, thu hẹp khoảng cách. Trong quá trình đạt được những thành tựu đó, ngành công nghệ vũ trụ Việt Nam phải vượt qua những khó khăn gì, thưa ông?
PGS, TS Phạm Anh Tuấn: Ngành công nghệ vũ trụ muốn phát triển cần nguồn nhân lực lâu dài. Trước khi có dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, hầu như không có nhân lực và chưa có ai được đi đào tạo nước ngoài ngành vũ trụ. Chúng tôi phải xây dựng nguồn nhân lực từ đầu. Thông qua dự án này, chúng tôi đã đào tạo được một lứa thạc sĩ đầu tiên về công nghệ vũ trụ. Để bảo đảm nguồn nhân lực lâu dài, Trung tâm Vệ tinh Quốc gia đã liên kết với 3 trường đại học: Đại học Khoa học Công nghệ Hà Nội đào tạo kỹ sư, thạc sĩ và tiến sĩ; Đại học Công nghệ thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đào tạo kỹ sư; từ năm 2016 liên kết với Đại học Quốc tế thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đào tạo kỹ sư công nghệ vũ trụ. Với những nguồn đó thì chúng ta mới dần dần giải quyết được những vấn đề về nguồn nhân lực cho ngành.
Về nhân lực cho tương lai, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã ký với NASA về Chương trình Globe nhằm phổ cập kiến thức vũ trụ cho học sinh cấp THCS và THPT. Chúng tôi cũng tổ chức những buổi truyền đạt kiến thức căn bản về vũ trụ cho các giáo viên và học sinh để truyền lửa đam mê. Và biết đâu, từ những em nhỏ này, ngọn lửa đam mê ngành vũ trụ sẽ được cháy lâu dài.
Xa hơn nữa, Trung tâm Vệ tinh Quốc gia đang tập trung xây dựng Bảo tàng Vũ trụ Quốc gia, nơi các em nhỏ cấp mẫu giáo, tiểu học sẽ được khơi dậy niềm đam mê và nuôi dưỡng dần khi lớn lên. Cứ thế, 10, 15 năm nữa, chúng tôi lại có tiếp một thế hệ hứng thú, say mê ngành công nghệ vũ trụ.
Tuy nhiên, theo tôi, vấn đề khó nhất là làm sao để đội ngũ đang làm việc bảo đảm yên tâm công tác. Đợt đào tạo 35 thạc sĩ tại Nhật Bản, chi phí cho mỗi người lên tới hơn 250.000USD. Tất nhiên, các bạn không chỉ học thạc sĩ mà còn học chuyển giao công nghệ chế tạo vệ tinh. Bây giờ về theo cơ chế lương của Việt Nam chỉ vài triệu một tháng thì quá phí. Chúng tôi sẽ trình Chính phủ xin cơ chế tài chính đặc thù cho ngành công nghệ cao này để ít nhất cũng phải tạo được một cuộc sống ổn định cho đội ngũ này yên tâm công tác, cống hiến cho khoa học.
Riêng cá nhân tôi cho rằng, nếu chúng ta không biết nuôi dưỡng ước mơ thì ước mơ đó sẽ không thành hiện thực. Các bạn trẻ phải nhìn thấy trước tương lai của lĩnh vực mình theo đuổi mới sẵn sàng cống hiến và yên tâm công tác. Nếu không, chỉ cần một doanh nghiệp liên doanh mời gọi với mức lương hấp dẫn, họ sẵn sàng ra đi.
Tôi tự hào vì Trung tâm Vệ tinh Quốc gia đã có môi trường làm việc thúc đẩy hiện thực hóa ước mơ của cả một đội ngũ trẻ nhưng đầy tâm huyết và đam mê.
PV: Trân trọng cảm ơn ông về cuộc phỏng vấn!
PHƯƠNG NGUYỄN (thực hiện)