Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, nhiều chuyên gia cho rằng đây là thời điểm “bản lề” để thiết lập một tư duy giám sát mới. Vì sao lần sửa đổi Luật Hoạt động giám sát này lại được coi là mang tính đột phá?
PGS, TS Bế Trung Anh: Bởi vì bối cảnh đã hoàn toàn khác. Trong nhiều thập niên, chúng ta vận hành bộ máy nhà nước theo mô hình hành chính mệnh lệnh từ Trung ương đến cơ sở, một quyết định ban ra là cả hệ thống đồng loạt thực thi. Cách làm ấy phù hợp với giai đoạn đất nước còn ở thế “kiến thiết”, khi yêu cầu hàng đầu là thống nhất và ổn định.
Nhưng hôm nay, Việt Nam đang bước vào một kỷ nguyên mới: Nhà nước phục vụ-Chính phủ kiến tạo-xã hội đồng hành. Quyết định không còn chỉ truyền đạt từ trên xuống, mà phải được xây dựng trên dữ liệu, phản biện và sự tham gia của người dân. Trong bối cảnh đó, luật giám sát không thể dừng ở việc “kiểm tra và xử lý”, mà phải trở thành công cụ giúp Quốc hội dẫn dắt, điều chỉnh và kiến tạo năng lực thích ứng của cả bộ máy.
Nói cách khác, lần sửa đổi này không chỉ là làm mới kỹ thuật lập pháp, mà là thay đổi triết lý, chuyển từ giám sát quyền lực sang giám sát kiến tạo phát triển. Đó là bước ngoặt tư duy mà chỉ có thể xuất hiện khi thể chế đã đủ chín, trưởng thành.
    |
 |
| PGS, TS Bế Trung Anh. Ảnh do nhân vật cung cấp |
PV: Đồng chí có thể giải thích rõ hơn triết lý “giám sát để kiến tạo”?
PGS, TS Bế Trung Anh: Giám sát để kiến tạo không phải là “mềm hóa” quyền lực giám sát, mà là nâng nó lên một tầm cao hơn-tầm dẫn dắt. Nếu giám sát truyền thống là tìm chồng chéo, chưa phù hợp thực tiễn, sai phạm để xử lý thì giám sát kiến tạo hướng đến phát hiện sớm, cảnh báo sớm, đồng hành sớm để chính sách không sai ngay từ gốc.
Thử hình dung, trong kỷ nguyên dữ liệu, khi Chính phủ điều hành bằng hệ thống số, nếu Quốc hội vẫn giám sát bằng giấy tờ thì chắc chắn sẽ đi sau thực tiễn. Giám sát mới phải dựa trên dữ liệu, thời gian thực và vận hành song hành cùng hành pháp.
Ở Hàn Quốc, nghị sĩ có thể truy cập cổng dữ liệu quốc gia về chi tiêu công; ở Estonia, Quốc hội giám sát việc thực thi chính sách qua nền tảng X-Road-tất cả diễn ra tức thời, minh bạch. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi. Khi Quốc hội số đang được triển khai, khi hạ tầng dữ liệu đang được đồng bộ hóa, chính đây là thời điểm lý tưởng để thể chế hóa mô hình giám sát bằng dữ liệu-nền tảng của giám sát thông minh, minh bạch và công bằng.
PV: Có ý kiến cho rằng, nếu Quốc hội can dự sớm quá vào quá trình điều hành, sẽ dễ làm mờ ranh giới giữa lập pháp và hành pháp. Đồng chí đánh giá thế nào về ý kiến này?
PGS, TS Bế Trung Anh: Đó là lo ngại chính đáng, nhưng chỉ đúng nếu ta hiểu “giám sát sớm” là “can thiệp sớm”. Thực ra, bản chất của giám sát hiện đại không phải là can thiệp, mà là đồng hành trí tuệ.
Ở nhiều quốc gia, Quốc hội không đợi đến khi chính sách ban hành mới phản biện, mà tham gia từ giai đoạn hình thành ý tưởng, cùng thảo luận định hướng, đánh giá tác động và giám sát ngay trong khâu thiết kế (người ta gọi đây là giám sát theo chu trình chính sách).
Khi Quốc hội tham gia như vậy, hành pháp không bị cản trở, mà được “bổ sung năng lực”, vì giám sát trở thành kênh phản biện sớm, giúp chính sách chính xác và ít rủi ro hơn. Ở chỗ này, cần hiểu một cách tiến bộ, tích cực hơn, đó là giám sát không phải để bắt lỗi quá khứ, mà để bảo đảm tương lai đúng hướng-như vậy tức là không chờ sai mới “giám sát”.
Tôi nghĩ, trong mô hình thể chế mới, lập pháp-hành pháp-nhân dân không còn là 3 vòng tròn tách biệt, mà là 3 điểm nối trong một hệ thống mở, chia sẻ trách nhiệm và thông tin. Quốc hội phải trở thành “người dẫn đường” trong hệ thống đó.
PV: Đồng chí có nhắc đến Quốc hội số. Đây có phải là bước chuẩn bị cho mô hình giám sát mới?
PGS, TS Bế Trung Anh: Hoàn toàn đúng. Quốc hội số không phải là khẩu hiệu, mà là một bước chuyển căn bản trong phương thức vận hành quyền lực.
Hãy tưởng tượng, một đại biểu có thể tra cứu tức thì tình hình giải ngân đầu tư công, tiến độ thực hiện dự án ở địa phương, số liệu giáo dục-y tế-an sinh... ngay trên hệ thống số hóa. Khi đó, giám sát không còn theo chu kỳ, mà trở thành một dòng dữ liệu sống, liên tục, minh bạch và có thể hành động kịp thời.
Điều quan trọng hơn, Quốc hội số không chỉ giúp “giám sát thông minh” mà còn tăng tính tương tác với nhân dân. Người dân có thể phản ánh vấn đề qua nền tảng số, gửi dữ liệu thực tế cho đại biểu và thấy phản hồi trực tuyến từ Quốc hội. Khi đó, giám sát không chỉ là quyền lực của cơ quan dân cử, mà là quyền lực chung của nhân dân và Quốc hội cùng thực hiện.
Tôi cho rằng, Luật Hoạt động giám sát sắp tới chính là “xương sống thể chế” cho tiến trình Quốc hội số.
    |
 |
| Xe rước biểu tượng Quốc huy tại Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 7-5-2024. Ảnh: TUẤN HUY |
PV: Đồng chí cũng đề cập đến "giám sát đồng kiến tạo, đa chủ thể”. Cụ thể, điều đó sẽ được thể hiện như thế nào trong luật?
PGS, TS Bế Trung Anh: Giám sát đồng kiến tạo nghĩa là mọi chủ thể trong xã hội đều có vai trò trong quá trình giám sát quyền lực.
Ngày nay, nhân dân, báo chí, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, giới nghiên cứu đều có dữ liệu và tri thức. Nếu biết huy động, Quốc hội sẽ có một hệ thống “mắt xích” khổng lồ, giúp giám sát toàn diện, kịp thời và chính xác hơn. Ví dụ, các tổ chức xã hội dân sự có thể cung cấp dữ liệu về môi trường, năng lượng tái tạo, y tế công...; báo chí có thể trở thành kênh cảnh báo sớm; các viện nghiên cứu có thể đánh giá chính sách bằng công cụ phân tích dữ liệu lớn. Luật mới cần quy định cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi thông tin từ xã hội-có nghĩa là xã hội hóa giám sát theo cách có tổ chức và kỷ luật. Ở đây, vai trò của Quốc hội số lại càng quan trọng: Nó là “trung tâm xử lý dữ liệu giám sát”-nơi mọi nguồn thông tin hội tụ, được xác thực, phân tích và phản hồi.
PV: Theo đồng chí, để luật giám sát thực sự phát huy hiệu quả, cần cơ chế nào để bảo đảm các kết luận giám sát không rơi vào tình trạng “ra rồi để đó”?
PGS, TS Bế Trung Anh: Câu hỏi này chạm đúng điểm yếu lâu nay của hệ thống giám sát. Để khắc phục, tôi cho rằng phải thiết kế cơ chế kép: Chế tài và khuyến khích.
Về chế tài, cần quy định rõ trách nhiệm và hậu quả pháp lý nếu cơ quan chịu giám sát không thực hiện hoặc chậm thực hiện kết luận của Quốc hội. Nhưng song song, cần có cơ chế khuyến khích. Ví dụ: Công khai bảng xếp hạng các bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt và biểu dương đơn vị tiên phong.
Ở nhiều nước, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), kết quả giám sát được công khai trên cổng dữ liệu Quốc hội, như một chỉ số minh bạch quốc gia. Khi đó, áp lực công luận trở thành động lực thực thi.
Giám sát không phải để trừng phạt, mà để điều chỉnh và khích lệ. Nếu luật thể hiện được tinh thần đó, giám sát sẽ không chỉ mạnh mẽ hơn mà còn nhân văn và hiệu quả hơn.
PV: Vậy theo đồng chí, Luật Hoạt động giám sát mới sẽ đem lại điều gì lớn hơn cho nền quản trị quốc gia?
PGS, TS Bế Trung Anh: Tôi tin rằng đây sẽ là một bước tiến thể chế mang tính nền tảng. Luật này sẽ khẳng định một tư duy mới: Luật pháp không chỉ điều chỉnh cái đã diễn ra mà còn dẫn dắt cái chưa từng có nhưng chắc chắn sẽ xảy ra. Nhất là trong một môi trường mà Đảng yêu cầu “đổi mới sáng tạo” rộng khắp, thì những cái mới luôn xuất hiện và thường nằm ngoài tư duy tuyến tính thông thường.
Khi đó, Quốc hội không chỉ là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất mà còn là trung tâm của trí tuệ, bản lĩnh và tầm nhìn thể chế quốc gia.
Tôi thường nói với các đồng nghiệp: “Nếu chúng ta chỉ sửa nhỏ, luật này sẽ vẫn là giám sát của quá khứ; nhưng nếu dũng cảm đổi mới, nó sẽ là luật của tương lai”. Luật Hoạt động giám sát lần này, nếu được xây dựng đúng tinh thần đó, sẽ góp phần biến quyền lực của nhân dân thành năng lực đổi mới của quốc gia-đó là mục tiêu tối thượng của lập pháp trong kỷ nguyên kiến tạo.
PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!