Nhưng nếu thật sự bình tĩnh, tin tưởng và lạc quan có cơ sở, thì chúng ta sẽ nhận ra dòng chảy chủ lưu của nền văn chương dân tộc thời nay vẫn tuân thủ các nguyên tắc chân-thiện-mỹ. Trong đó, lịch sử chiến tranh cách mạng vẫn luôn là một đề tài hấp dẫn và tươi mới đối với những người sáng tạo.
Những tín hiệu đáng mừng
Một thời gian dài, dưới sức ép của cơ chế thị trường, những tưởng văn chương ngôn tình, sex, chấn thương, giải thiêng lịch sử, thậm chí thuần túy giải trí… có thể soán ngôi, chiếm thế thượng phong. Nhưng quan sát thực tiễn văn chương đương đại Việt Nam, tôi nhận thấy một thực tế đáng mừng: Sự trở lại của đề tài chiến tranh cách mạng, cũng như đề tài lịch sử, dĩ nhiên là với những cách viết mới mẻ, nhiều tìm tòi táo bạo nhưng không xa rời nguyên tắc của cái Đẹp. Và điều quan trọng là không đem lại cho độc giả một cái nhìn u ám, bi quan về đời sống và con người.
Ngày nay, nhà văn có thể viết tất cả những gì liên quan đến số phận mỗi con người, cao hơn là vận mệnh dân tộc. Và ở mức độ cao hơn, viết về chiến tranh là một cách “ôn cố tri tân”, là cách trao cho con người hôm nay cái “chìa khóa” để tìm ra câu trả lời về cách ứng xử (như là một phẩm cách văn hóa) trong một đời sống ngày càng trở nên phức tạp hơn, nhiều mối bất trắc và đáng lo âu hơn. Khi cái câu “làm người là khó?” lại đã và đang vang lên thường trực vừa như một câu hỏi, vừa như một thách thức không chừa ai. Ở đây, trong bối cảnh mới, một lần nữa vấn đề nhân cách lại được đặt ra khẩn thiết hơn bao giờ hết. Trên sóng Truyền hình Việt Nam, các chuyên mục như “Việc tử tế” hay chương trình “Giai điệu tự hào” đang nhận được sự hưởng ứng và cổ vũ của đông đảo khán giả. Cả xã hội đang đồng thanh, đồng ý, đồng tình cho sự nghiệp xây dựng một nhân cách Việt Nam mới trong thời đại hội nhập và phát triển. Văn học có vai trò to lớn trong công cuộc kiến thiết văn hóa ấy. Cho đến tận bây giờ, ý kiến của nhà văn quân đội Nguyễn Trọng Oánh (1929-1993), tác giả thiên tiểu thuyết chiến tranh nổi tiếng Đất trắng vẫn rất thời sự: “Nói về quá khứ một cách nghiêm túc và trung thực thì không sợ không có điều gì để nói với hôm nay” (Nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB Hội Nhà văn, 2010).
Tọa đàm “Văn chương và không gian xã hội đương đại” do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức tại Nhà sáng tác Đại Lải, ngày 6-5-2017. Ảnh: DUY NGHĨA
Nhìn gần hơn, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2016 cho thấy trong số các tác phẩm đoạt giải, đề tài chiến tranh cách mạng vẫn là một trọng tâm, trọng lực với những cây bút gắn bó với cuộc sống của nhân dân trên một chặng đường lịch sử dài lâu, trải qua nhiều thử thách “lửa đỏ và nước lạnh”, vẫn sáng ngời phẩm tính Việt Nam - anh hùng và nhân ái. Mưa đỏ (tiểu thuyết, 2016) của Chu Lai tái dựng một trang lịch sử hào hùng và đau thương của dân tộc qua một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược - chiến dịch Trị Thiên năm 1972 mà tiêu điểm của nó là trận quyết chiến 81 ngày đêm đỏ lửa tại Thành cổ Quảng Trị. Tiểu thuyết mới của Chu Lai vừa mang âm hưởng sử thi, vừa tràn trề chất lãng mạn cách mạng như là một đặc điểm quan trọng của văn chương Việt Nam trong mười nghìn ngày (1945-1975) của 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chu Lai (được gọi là một cây bút viết tiểu thuyết “lực lưỡng”) vẫn trung thành với đề tài chiến tranh cách mạng và người lính từ Nắng đồng bằng (1978), Ăn mày dĩ vãng (1992), đến Mưa đỏ (2016), trong suốt mấy chục năm qua. Lê Minh Khuê, nữ nhà văn đã từng tham gia chiến tranh khi chưa tròn tuổi mười tám. Là một cây bút “trụ hạng” với thể loại “nhỏ”, đã sở hữu 13 tập truyện ngắn. Thành tựu sáng tác văn chương của bà được ghi nhận bằng 3 Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (các năm 1987, 2001, 2016), Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (năm 2012)… Tập truyện ngắn Làn nước chảy qua một lần nữa cho thấy “Chiến tranh không có một gương mặt phụ nữ” (như nhan đề tác phẩm đoạt Giải Nobel văn chương 2015 của nữ nhà văn người Bê-la-rút Xvét-la-na Alếch-xây-ê-vích). Trong mỗi truyện ngắn của Lê Minh Khuê, chiến tranh dù không còn hiện diện trực tiếp nhưng nó ngấm đến từng “chân tơ kẽ tóc” của con người thời hiện tại, cả trong hiện hữu sinh tồn, cả trong những giấc mơ, cả trong nước mắt và nụ cười. Nguyễn Văn Thọ có dư mười năm trải nghiệm chiến trường, dư hai mươi năm quăng quật ở xứ người kiếm sống, lấy đó làm “bột” để viết văn. Tập truyện ngắn Hương mỹ nhân (2016) của ông dù kể chuyện hôm qua hay hôm nay, ở trong nước hay ngoài biên giới, những phận người bé nhỏ hay may mắn thành đạt… thì vẫn cứ thấy chiến tranh dường như chưa chấm dứt, cứ đeo đẳng, cứ ngấm vào tận xương tủy. Lá bùa, Vàng xưa, Mùi thuốc súng… là những truyện ám ảnh và có dư ba, tạo nhiều liên tưởng nghệ thuật thú vị. Trong các cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội
(2013-2014), Báo Văn nghệ (2015-2017), đề tài chiến tranh cách mạng vẫn thu hút sự quan tâm của các cây bút đã kinh qua chiến tranh và cả những người sinh ra sau chiến tranh. Chỉ tính trong vòng 5 năm (từ năm 2012 đến 2017), như là một cái mốc văn học sử, những tác phẩm về chiến tranh cách mạng đã tạo nên một sinh khí mới cho văn chương nước nhà. Sự kiện này, theo chúng tôi, có phần thức tỉnh độc giả. Đó là sự xuất hiện liên tiếp những tiểu thuyết thành công ở những mức độ khác nhau: Dòng sông mang lửa của Hồ Sỹ Hậu, Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75của Trần Mai Hạnh (in lần thứ tư, với số lượng 10.000 bản, đã ra mắt phiên bản tiếng Anh), Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, Rừng đói của Nguyễn Trọng Luân, Thư về quá khứ của Nguyễn Trọng Tân, Trang trại hoa hồng của Đỗ Kim Cuông, Trái tim người lính của Nguyễn Thị Anh Thư, Trong cơn lốc xoáy của Trầm Hương, Đỉnh cao hoang vắng của Khuất Quang Thụy, Mưa đỏ của Chu Lai, Tình không biên giới của Kim Quyên v.v… Phải kể đến một hiện tượng: Huỳnh Trọng Khang (sinh năm 1994), ra mắt tiểu thuyết Mộ phần tuổi trẻ lúc anh chỉ mới 22 tuổi, đang là sinh viên năm cuối Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Tiểu thuyết của cây bút rất trẻ này đã “lặn” rất sâu vào cơ chế của chế độ Việt Nam cộng hòa, viết về những nhân vật chóp bu (Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu), các tướng lĩnh cao cấp, đến hàng ngũ binh sĩ. Đấy là câu chuyện về sự bế tắc lý tưởng của cả một thế hệ thanh niên sinh ra trong nhung lụa, có điều kiện hưởng thụ, họ là con cái của các nhân vật chóp bu trong chính quyền Sài Gòn; họ phản ứng thực tại bằng lối sống hip-pi, bằng sự phá phách, cự tuyệt xã hội, thu vào vỏ ốc cá nhân. Nhưng bế tắc vẫn hoàn bế tắc. Trong số họ không ít người đã tìm đến cái chết để giải thoát...
Và những cách nhìn, cách viết mới
Chúng ta vẫn nói “viết về cái gì không quan trọng bằng viết như thế nào”. Cũng có thể nói, đó chính là cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Đã qua rồi thời chiến tranh được viết theo lối “tả trận”. Bây giờ có nhiều cánh cửa để mở lối vào bảo tàng chiến tranh. Có thể dùng văn học tư liệu để tiếp cận và tái hiện chiến tranh như cách tác giả Trần Mai Hạnh đã thành công trong Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75. Người viết đã kỳ công hàng mấy chục năm “sục” vào kho tư liệu chiến tranh của đối phương và thế giới để viết về quá trình sụp đổ không tránh khỏi của chính thể Việt Nam cộng hòa. Đây là một cuốn tiểu thuyết tư liệu-lịch sử, được viết theo nguyên tắc không hư cấu (non-fiction). Cách viết này được nhiều tác giả vận dụng thành công ở những mức độ khác nhau như Đặng Đình Loan với bộ tiểu thuyết tư liệu - lịch sử đồ sộ Đường thời đại (17 tập), Hồ Sỹ Hậu với Dòng sông mang lửa, Trầm Hương với Trong cơn lốc xoáy... Văn học tư liệu có tương lai không thể chối cãi khi nó giúp độc giả tiếp cận “bản nguyên” đời sống có nhiều khả năng thay thế cho văn chương hư cấu nếu nó thấp lè tè, nhợt nhạt, suy diễn, thuần túy chỉ là “xác chữ”.
Văn học/tiểu thuyết về chiến tranh có yếu tố tự thuật đang có xu hướng “trương nở”. Vì theo chúng tôi, cho đến nay, thế hệ nhà văn chống Mỹ về cơ bản vẫn đang làm chủ văn đàn. Bây giờ họ đứng ở cái dấu nối của quá khứ anh hùng thời trận mạc với đời sống hiện tại. Ở cái “dấu nối” ấy như là nơi họ bộc lộ và thể hiện cái chủ thể viết - cái “tôi” - điều đó không có gì lạ và như một tất yếu. Văn học về chiến tranh nói chung, tiểu thuyết nói riêng, đã ghi nhận sự thâm nhập ngày càng sâu của yếu tố tự thuật. Lính trận (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2011 và Giải thưởng văn học Đông Nam Á năm 2012) của Trung Trung Đỉnh là một ví dụ. Không hẳn chỉ căn cứ vào câu chuyện được kể ở ngôi thứ nhất (nhân vật xưng “Tôi”), mà căn cứ vào cách tác giả rút ruột mình ra mà kể, kể những chuyện của đời lính trận mà mình trải nghiệm. Những câu chuyện đã trở thành ký ức lương thiện của những người cầm súng đi qua chiến tranh hết cả thời xuân xanh bây giờ mới kể làm xúc động độc giả.
Với một số tác giả “hậu sinh”, họ chưa trực tiếp trải nghiệm chiến tranh, nhưng họ cầm bút viết về một thời khói lửa, anh hùng và đau thương theo trí tưởng tượng của mình. Những nhà văn chưa hề trải qua chiến tranh nhưng trên đôi cánh của trí tưởng tượng họ vẫn có thể làm sống dậy quá khứ hào hùng của dân tộc và sự vươn lên của nhiều thế hệ. Còn nhớ trong văn học Nga cổ điển thế kỷ 19, L.Tôn-xtôi đã viết kiệt tác Chiến tranh và hòa bình sau sự kiện cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Nga đánh bại quân xâm lăng Pháp (năm 1812) những 50 năm. Ở đây có thể nhắc lại một quan niệm về vẽ của danh họa Pi-cát-xô, người Tây Ban Nha: “Tôi vẽ như tôi nghĩ chứ không phải như tôi nhìn thấy”. Viết về cuộc chiến đã lùi xa mấy thập kỷ, người viết không có vốn sống trực tiếp thì chỉ còn nhờ vào trí tưởng tượng, vào hư cấu. Nhưng có một nguyên tắc viết là phải tôn trọng sự thật lịch sử, không được bóp méo, xuyên tạc. Qua Cuộc thi truyện ngắn 2013-2014 của Tạp chí Văn nghệ quân đội, độc giả rất chú ý tới cái tên mới và trẻ - Doãn Dũng với chùm truyện đoạt Giải nhì: Âm thanh của ký ức và Chuyện Nguyên Phong. Trước đó, anh là tác giả tập truyện ngắn Bóng anh hùng (có già nửa số truyện viết về chiến tranh) được dư luận đánh giá cao.
Nhà văn Chu Lai có lần viết: “Chiến tranh là một siêu đề tài. Người lính là một siêu nhân vật”. Thiết nghĩ nhận định đó không hề khoa trương, trái lại nó phản ánh tâm thức của một thế hệ cầm bút trưởng thành trong khói lửa chiến tranh như câu thơ của Hữu Thỉnh: “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình” (Trường ca Đường tới thành phố). Nhưng cũng thật đáng lạc quan khi các thế hệ nhà văn tiếp nối (sinh ra từ sau năm 1975) vẫn dành nhiều tâm huyết cho một đề tài mà ở đó con người thời đại có thể cật vấn quá khứ để học cách tự tin bước vào tương lai theo tinh thần “ôn cố tri tân”.
BÙI VIỆT THẮNG