Mấy chú mấy cô trong làng nghe Hai Thương kể, lại được dịp xôn xao. Thời sự mấy nay đưa tin nhiều lắm nhưng cả cánh đồng đã chuyển một màu vàng rực. Những bông lúa nặng hạt uốn cong ngoài đồng giục mọi người gặt về. Mùa này trời lại hay mưa dông nên bà con cứ quanh quẩn ruộng đồng chẳng có mấy thời gian mà ngồi trước ti vi coi tin tức. Bà Sáu gật gù: “Thằng Đen vậy mà giỏi, lâu nay chỉ biết nó đi bộ đội, nay lại được diễu binh tận ngoài Thủ đô”. Chú Tám lên tiếng: “Tập mấy cái đó cực lắm, phơi nắng phơi sương nên đứa nào cũng đen. Chậc, có đứa con vậy mát lòng mát dạ. Bà Năm chắc tự hào về thằng Đen lắm”... Ai cũng bàn luận rôm rả, chẳng chú ý đến cô giáo Mây nghe người ta khen Đen mà bất giác đỏ bừng má.
Hồi chưa đi bộ đội, đã hơn một lần Đen tỏ tình với Mây. Lần nào Mây cũng lắc đầu. Đen đưa bàn tay gầy gầy lên gãi đầu, hỏi tại sao. Mây đỏ mặt, ngượng ngùng bảo: “Tại... tại Đen... đen quá. Tụi mình yêu nhau thì thành...Mây Đen à?!”. Đen cười mà như mếu, chuyện chi cũng có thể thay đổi chứ làn da của Đen làm sao mà đổi được.
Đen và Mây cùng tuổi, cùng đi học trường làng. Ruộng nhà Đen sát nhà Mây. Hai nhà hay chạy qua chạy lại phụ cày bừa, gặt lúa nên hai đứa thân nhau lắm. Thiệt lạ, con nhà nông mà da Mây trắng bóc. Trắng như mấy đám mây nhởn nhơ vắt qua cánh đồng làng mỗi ngày. Hồi đó cũng có mấy thanh niên để ý Mây, có lần còn lén bỏ thư tỏ tình vào giỏ xe đạp nhưng Mây không gật đầu ai cả.
Quê của Đen và Mây nghèo lắm. Làng Đại Bình trùng điệp núi vây quanh. Núi kề lấy núi, nắm tay nhau làm một hàng rào vây lấy làng. Mấy ông bà già kể, hồi xưa xung quanh đây là cái rốn của bom đạn. Bom đạn cày xới làm ruộng đồng nứt toạc. Lạ là làng này vẫn bình yên đi qua hai cuộc chiến. Sau này đặt lại tên làng tên xóm, bà con nhất quyết lấy tên là Đại Bình.
Mấy đám ruộng cạn nằm kề chân núi là sinh kế chủ yếu của dân làng. Mấy đứa con nít tóc vàng hoe, nhỏ xíu đã biết lên núi kiếm mật, bẻ măng, lượm ươi bay phụ giúp ba má kiếm tiền. Đường sá đi lại khó khăn, khiến sự học nơi này cũng lắm nhọc nhằn. Tụi nhỏ thường bỏ học giữa chừng, ngồi xe đò vượt núi để tìm kiếm những giấc mơ khác cho đời mình. Mây học giỏi, xong cấp ba đi học sư phạm dưới tỉnh. Ngày Mây trở về làng dạy học khiến mấy bà mấy ông tròn mắt ngạc nhiên. Bởi giáo viên đa phần được cử tới dạy, hết thời gian lại rời đi để người khác tới. Những người trẻ rời làng họ không chọn cách quay về như Mây. Mây cười, quê mình thì mình về, đi hết lấy ai dạy tụi nhỏ!
Hồi Mây đi học sư phạm thì Đen có giấy gọi nhập ngũ. Bữa chia tay, Đen thả vào tay Mây mấy bông dủ dẻ ủ hương ngọt ngào. Đen cứ nhìn Mây mãi, định nói lại thôi. Lớn lên với nhau từ nhỏ, nhìn Đen, Mây biết bụng Đen nghĩ gì. Mây tinh nghịch bảo: “Mây biết rồi, chừng nào da Đen... trắng thì Mây ừ”. Mặt Đen đỏ lựng. Đen nhờ Mây thỉnh thoảng ghé về làng thì chạy qua chạy lại với má Đen, má chỉ có một mình. Mây gật đầu bảo Đen yên tâm.
Trường học trên cao, ngó ra bát ngát núi non. Mây mỗi ngày tới lớp thật sớm đón học trò. Nhìn những đứa con nít vượt quãng đường xa, đôi dép dưới chân mòn vẹt khiến Mây thương đứt ruột. Quê nghèo nên học trò đứa nào cũng lam lũ, da dẻ đen thui. Ngoài giờ học thì ra đồng phụ ba má chăn trâu, nhổ cỏ lúa. Mây nắn nót ghi lên bảng hai chữ “Tiếng Việt”, tụi nhỏ ngồi dưới mắt sáng trưng nhìn theo tay cô rồi cặm cụi ghi vào vở.
Mây dạy học về, thường tiện đường tạt qua nhà Đen. Bà Năm thấy cô giáo ghé mặt rạng rỡ hẳn lên. Bà chưa già lắm nhưng nỗi cô đơn khi sống một mình khiến bà có phần hom hem hơn so với tuổi. Mây đặt lên bàn khi thì vài quả chuối, khi bó rau cải vừa mua được ven sông bảo bà nấu canh ăn cho mát. Mấy sào ruộng của bà sát ruộng Mây cũng đã chín. Mây nhờ người gặt, cột chặt bao chở về sân cho bà phơi.
Bữa nay ghé nhà, Mây kể bà Năm nghe chuyện chị Hai Thương thấy Đen trong đội hình diễu binh qua Lăng Bác. Bà Năm nghe câu nào, mặt giãn ra chừng đó. Bà bảo tháng trước Đen cũng gọi điện về khoe, bà vui như hồi xưa nghe tin đất nước hòa bình. Miệng bà cười mà mắt rưng rưng. Rồi bà lại gần bàn thờ, đốt mấy nén nhang cắm trước mấy di ảnh đen trắng. Bà nói nếu ba Đen còn sống biết tin Đen vinh dự được diễu hành ngoài Hà Nội chắc ông vui lắm.
Hồi đi học sư phạm, Mây thỉnh thoảng viết thư cho Đen. Mây kể về ước mơ sau này làm cô giáo sẽ xây dựng một thư viện thật nhiều sách cho tụi nhỏ, tụi con nít quê mình thèm sách như ruộng đồng mùa khô thèm những cơn mưa rào. Những lá thư Đen phản hồi luôn gửi kèm một bông hoa, một chiếc lá ép khô được hái ở thao trường. Thư qua thư lại, bàn đủ chuyện trên trời dưới đất nhưng tuyệt nhiên Mây chưa từng nhắc chữ yêu thương.
Mây về làng làm cô giáo, Đen được học tiếp ở trường Quân đội. Thỉnh thoảng được nghỉ phép, Đen quẩy ba lô về thăm làng. Có lần Đen để nguyên bộ quân phục ghé vào trường. Tụi học trò đang cặm cụi làm toán, thấy chú bộ đội đứa nào cũng nhao nhao: “Chú bộ đội... chú bộ đội kìa tụi bây”. Mây hào hứng dắt Đen vào thăm thư viện. Một căn phòng ngập tràn những sách. Mây nói những cuốn sách cũ sờn được gửi khắp nơi về đây là niềm vui bất tận cho tụi nhỏ.
Nhưng những cuộc về làng của Đen luôn vội vã, lời cần nói định thốt ra rồi lại cất vào lòng. Có năm Đen chẳng về, Mây đi chơi vơi giữa mùa lúa chín, thấy lòng mình trống trải như những cơn gió thổi qua thổi lại trên đồng.
Đen hay gọi điện hỏi han. Mây bảo Đen yên tâm mà công tác, má Đen đã có Mây qua lại mỗi ngày. Mây kể Đen nghe lúa đã chín vàng khắp ruộng đồng quê mình đẹp lắm. Mây kể hồi sáng đi chợ gặp cá ngạnh sông tươi rói, chừng nào Đen về Mây sẽ nấu với khế cho Đen ăn... Đen ngập ngừng rồi hỏi: “Vậy là em... à... Mây đồng ý lời đề nghị hồi xưa phải không?”. Mặt Mây đỏ bừng, may là Đen không thấy.
Ngồi giữa cánh đồng lồng lộng gió, Mây thường nghĩ về Đen. Ba má Mây ưng Đen lắm. Nhất là từ khi thấy Đen trở về làng với bộ quân phục trên người. Ba Mây nói, bộ quân phục ấy làm ai nhìn cũng yên lòng. Má giục con gái có thì, gật đầu để nhà trai còn trầu cau đi tới, má Đen ướm lời nhiều lần, cả hai gần ba chục hết rồi chứ còn bé bỏng gì nữa. Nhưng mà lòng Mây lạ lắm... Mây nghĩ mình là bạn, là tri kỷ, là người có thể đi cùng Đen hàng vạn buổi giữa cánh đồng. Nhưng Mây chưa từng nghĩ mình ở vai trò một người vợ. Bởi thế, Mây rõ lòng Đen hơn ai hết mà cái gật đầu còn lưỡng lự.***
Tháng chín nắng vàng như màu nước chè sóng sánh trải khắp nơi. Lúa đã gặt về, ngoài đồng chỉ còn trơ gốc rạ. Trâu bò căng bụng vì ăn rạ phủ phê. Làng trên, xóm dưới vàng ươm lúa trong sân phơi. Gương mặt người làng ai cũng ướt đẫm mồ hôi mà miệng cười rổn rảng. Mây đội nón, dùng chiếc cào đảo lúa cho mau khô. Chiếc loa phóng thanh giữa làng rộn ràng những ca khúc mừng đại lễ. Lòng Mây râm ran niềm vui lạ kỳ, tưởng chừng như thấy Đen tay ôm súng, mắt sáng trưng cùng đồng đội đi trên Quảng trường Ba Đình đầy nắng.
Chị Hai Thương ghé nhà. Chị hồ hởi kể mấy đứa con nít đòi cô Mây dạy cắt giấy màu, lấy bút vẽ những lá cờ đỏ sao vàng trang trí khắp nhà, lớp học chào mừng Quốc khánh và năm học mới. Tụi nhỏ khéo tay, còn làm thành những dây cờ treo dọc đường. Chị phơi lúa, ngẩng lên nhìn thấy dây cờ lung lay trong gió mà thấy vui chi lạ. Rồi chị bảo với Mây lễ lớn này mình phải làm một cái gì đó vui vui đi chứ! 80 năm mới có một lần, đời người dễ chi có lần nữa. Lại thêm thằng Đen nữa, làng mình vinh dự quá đi chứ! Nhắc tới Đen, lòng Mây lại bâng khuâng...
Hôm Quốc khánh, bà con tập trung xem diễu binh, xem xong thì mở tiệc linh linh. Mây cũng dắt má Đen tới nhà chị Hai Thương xem diễu binh với mọi người. Hẳn bà vui lắm khi biết đứa con trai mình thương tận cùng đã trưởng thành, biết Đen được cả làng Đại Bình thương yêu. Mây căng mắt vào màn hình ti vi, sẽ tìm kiếm người mình thương đang đi giữa đồng đội.
Nắng vàng rực trong sân. Đột nhiên Mây nghĩ tới một đám rước dâu ngang qua cánh đồng làng. Chú rể mặc bộ quân phục màu xanh thật đẹp. Theo sau đoàn rước dâu sẽ là tụi học trò, mắt sáng như nắng mùa thu...
    |
 |
Tác giả NGUYỄN THỊ NHƯ HIỀN. |
Cái duyên của Nguyễn Thị Như Hiền là biết kết nối hiện tại và quá khứ, thời sự và bền lâu, khéo khơi gợi niềm tin yêu, tự hào về truyền thống đất nước, về những giá trị nhân văn muôn thuở của con người. Thoảng nhẹ, mát lành như cơn gió ngang qua những nương đồng trong thung lũng, giản dị, tinh tế như tâm tình của cô giáo tiểu học và anh bộ đội thời bình. Thông điệp về tình yêu lứa đôi hòa trong tình cảm, trách nhiệm của tuổi trẻ đối với Tổ quốc, quê hương trong “Đi dưới nắng thu” dễ dàng được bạn đọc đón nhận một cách tự nhiên, trọn vẹn. (PGS, TS BÙI THANH TRUYỀN)
|
Truyện ngắn của NGUYỄN THỊ NHƯ HIỀN