Có lẽ vì tôi tuổi Thân, mẹ tôi cũng tuổi Thân, nên câu chuyện ấy ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Nó giống như soi vào một ký ức khác, không phải của khỉ mẹ trong rừng, mà của chính mẹ tôi-người đàn bà gầy gò với bầu sữa mẹ nuôi con giữa những ngày chạy loạn đạn bom.

***

Mẹ vẫn thường bảo, cái tuổi nó vận vào cả đời người là thật. Từ lúc mẹ mới mang thai con, cho đến ngày sinh nở, một bước cũng chẳng yên thân vì chiến tranh, giặc giã.

Ngày tôi còn nhỏ, chiến tranh là thứ gì đó xa xôi, như tiếng vọng của một câu chuyện kể. Tôi hồn nhiên đến mức, hễ thấy đám lính đi tuần là lon ton chạy theo, có khi tò mò sờ vào nòng súng đen ngòm của họ. Đám lính trợn mắt, dọa bắt, còn tôi thì cười khúc khích. Nhưng mỗi lần như thế, mẹ tôi lo đến tái mày tái mặt. Tôi còn quá nhỏ để hiểu súng đạn vô tình và đáng sợ thế nào. Chỉ khi nhìn gương mặt mẹ nhợt nhạt, đôi môi run run mím lại, tôi mới biết trong sự im lặng ấy có một nỗi sợ hãi còn lớn hơn tiếng bom.

Ba tôi, những ngày ấy, không hề đi mua ve chai ở miệt dưới như mẹ vẫn thường trả lời mỗi khi tôi ngây ngô hỏi vì sao ba vắng nhà triền miên. Đó chỉ là một tấm màn khói mỏng manh để che chở cho một bí mật lớn hơn mà mãi về sau tôi mới hiểu. Ba đang ở trong căn cứ đồng tràm, giữa vùng nước mênh mông chỉ cách nhà một con sông cái lớn và vài khúc xuồng chèo, nơi tiếng cá quẫy hòa lẫn với tiếng gió thổi qua những hàng cây bạt ngàn. Đồng tràm ấy không chỉ là nơi ẩn náu của những người như ba, mà còn là nhịp tim của cả xóm tôi, là nơi mọi hy vọng, mọi tin tức sống còn đều hướng về.

Giữa nhà tôi và đồng tràm có một sợi dây liên lạc mảnh như tơ nhện, chính là bà cụ ăn xin. Ban ngày, bà lê lết ngoài chợ, cái dáng cong như dấu hỏi, đôi mắt lờ đờ như chẳng còn sức sống. Mỗi lần thấy bà, tôi chỉ nghĩ đó là một kiếp nghèo rớt mồng tơi, đi ăn xin qua ngày. Nhưng khi đêm về, bà bỗng biến thành một con người khác. Dáng đi nhanh nhẹn, đôi bàn tay gầy guộc thoăn thoắt mở lồng bàn, vơ mấy chén cơm nguội mẹ để sẵn, rồi khéo léo giấu những “đòn bánh tét” dưới lớp vải cũ sờn. Tôi nhớ mãi ánh mắt của mẹ khi dúi những “đòn bánh” ấy cho bà-không phải bánh thật mà là mớ thuốc Nam, những lá thư ngắn gọn, đôi khi chỉ vài ký hiệu, những thông điệp mà ba tôi cần. Giữa hai người đàn bà ấy không cần nhiều lời, chỉ một cái gật đầu khẽ cũng đủ để hiểu rằng đêm nay, tin tức sẽ vượt sông, về đến đồng tràm.

Rồi một buổi sáng xám xịt sau Tết năm tôi tròn mười hai tuổi, tiếng súng nổ chát chúa giữa chợ. Người ta kể bà cụ ngã xuống ngay cạnh gánh rau của một người bán hàng, đôi mắt vẫn mở, bàn tay run run như còn muốn với lấy thứ gì đó. Người ta bảo bà bị nghi là liên lạc cho du kích. Tin ấy như cơn gió độc thổi qua từng ngõ xóm. Chiều hôm đó, tôi thấy cả làng như nín thở. Tiếng nói chuyện rì rầm biến mất. Những đôi mắt nhìn nhau vội vã rồi cúi gằm. Ngay cả bước chân giẫm lên nền đất cũng chừng mực, nhẹ như sợ chạm phải một cái bẫy vô hình.

Đêm đến, làng tôi không còn là nơi yên ả. Mỗi tiếng chó sủa vang lên trong khoảng không tối om không còn là tiếng quen thuộc nữa, mà hóa thành tiếng cảnh báo rợn người. Người lớn lặng lẽ tắt đèn sớm hơn mọi khi. Tôi nằm trong mùng, nghe tiếng tim mình đập hòa lẫn với tiếng gió xào xạc ngoài vườn, bỗng thấy sợ một điều gì đó không gọi thành tên, một cái lạnh len vào từng hơi thở. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi mơ hồ nhận ra rằng, từ ngày bà cụ ngã xuống, sợi dây nối giữa nhà tôi và đồng tràm như căng ra, mảnh đến mức chỉ cần một cơn gió cũng có thể làm nó đứt lìa. Và cùng với nó, một phần tuổi thơ của tôi cũng rơi xuống, vỡ tan trong tiếng chó tru dài giữa đêm.

Mẹ tôi, trong những ngày ấy gồng mình buôn bán từng mớ rau. Chở rau sang làng bên thôi cũng là một lần đánh cược. Tôi khi ấy chỉ là một đứa trẻ nghịch ngợm, tò mò. Một bữa, liều lĩnh rủ đám bạn đóng bè chuối sang sông, bè vừa chạm bờ thì tan rã, mỗi đứa ôm một khúc chuối lội về. Còn tôi, tay không giữa dòng nước, trong khoảnh khắc run rẩy đó, tôi nghĩ ra một điều: “Hay mình đi tìm ba?”.

Chuyến đi ấy in hằn trong ký ức. Tôi lội qua những vạt tràm, bùn lút gối, hỏi thăm ai cũng chỉ lắc đầu. Đến một quãng vắng, may mắn lạ kỳ thay, có một chú cùng xóm chạy xe lôi nhận ra tôi nên dừng lại, nhìn tôi chăm chú rồi ngó quanh một lúc, cất tiếng hỏi:

- Con anh Tư xóm Cải phải không? Muốn tìm ba hả? Lên xe!

Tôi leo lên. Chú xe lôi chạy một đoạn xa rồi đến một bến sông. Chú huýt sáo ba tiếng, từ đâu một chiếc xuồng nhỏ xuất hiện. Người chèo xuồng lặng lẽ đưa tôi trôi dần vào đồng tràm. Và rồi... tôi gặp ba ở đấy với niềm vui như vỡ òa hạnh phúc sau bao ngày mong nhớ. Vừa mừng vừa tủi khiến hai cha con ôm nhau khóc như mưa. Tôi tưởng mình sẽ được ở lại, nhưng chiến khu không phải nơi giữ trẻ con. Sau mấy hôm ngắn ngủi, ba gửi tôi qua một đơn vị khác. Ở đó, tôi được học thêm chữ, vừa học vừa chạy việc vặt như nhóm bếp, nấu cơm, đưa đồ cho các cô chú. Mải mê trong niềm vui trẻ thơ, tôi không biết mẹ ở nhà đang vò võ lo âu.

Một hôm, ba đến thăm và bảo tôi viết thư cho mẹ, để mẹ yên tâm.

Tôi nắn nót từng nét chữ. Lá thư đầu tiên trong đời tôi run run như bàn tay cầm bút. Ba cười hiền, gấp thư bỏ vào túi áo. Từ đó, những lá thư thành sợi dây mảnh mai nối ba con người giữa cơn lốc chiến tranh. Thư của mẹ luôn dặn: “Mẹ vẫn ở bên con, bằng tình thương vô bờ bến”. Những câu chữ ấy, tôi từng nghĩ chỉ là lời động viên. Nhưng đến khi nhận được tin dữ, tôi mới hiểu sâu hơn hết thảy.

leftcenterrightdel
 Minh họa: LÊ ANH

Tháng 4-1975, mùa khô cuối cùng của chiến tranh, đất trời như nín thở trước giờ phút chuyển mình. Tôi vừa tròn mười chín tuổi, cái tuổi ngơ ngác đứng giữa ranh giới của một đứa trẻ và một người trưởng thành. Trong tôi khi ấy không có những hoài bão lớn lao nào ngoài một ước mong giản dị, ngày hòa bình về, gia đình đoàn tụ, tôi sẽ xin phép mẹ dẫn cô gái tôi yêu về ra mắt. Tôi đã hình dung ra gương mặt mẹ khi nhìn thấy chúng tôi, cái cười hiền hắt lên ánh mắt nhọc nhằn mà dịu dàng biết mấy. Tôi đã tin, sau bao nhiêu năm xa cách, chỉ cần vượt qua cơn bão cuối cùng này, chúng tôi sẽ được ngồi lại bên nhau dưới mái nhà cũ, nghe tiếng gió lùa qua những rặng dừa, bình yên như chưa từng có chiến tranh.

Nhưng, khi tiếng hò reo chiến thắng bắt đầu vang dội khắp xóm thôn, khi những lá cờ giải phóng phấp phới như những đốm lửa báo hiệu mùa xuân tự do đang ùa về, cũng là lúc mẹ tôi lặng lẽ bước ra khỏi cuộc đời này.

Người ta tìm thấy mẹ trong một ngôi biệt thự hoang tàn ở ngoại ô thành phố. Trên người bà là bộ quần áo lộng lẫy trong vai bạn gái của một viên sĩ quan cao cấp phía bên kia. Đó là cách mẹ đã chọn để che chắn cho những người còn sống. Khi biết mình đã bị lộ, trong khoảnh khắc ấy, mẹ vẫn cố câu giờ, cố để thêm một người nữa của ta thoát ra khỏi vòng vây. Rồi tiếng súng của địch đã nổ trong căn biệt thự, trong khi pháo của ta đang khai hỏa dồn dập về phía trung tâm thành phố.

Người đồng đội tìm thấy mẹ kể lại rằng, khi họ đẩy cánh cửa gỗ nặng nề ra, trong ánh sáng mờ nhạt, mẹ nằm đó. Đôi mắt bà vẫn mở, không phải ánh nhìn sợ hãi, mà như đang hướng về một nơi nào rất xa, nơi có một đứa con trai tóc còn xanh chưa kịp trưởng thành. Có người nói, có lẽ bà đã nghe thấy tiếng chân bộ đội tiến vào, và trong giây cuối cùng ấy, bà vẫn kịp mỉm cười trong lòng.

Giữa biển người reo hò, lòng tôi vừa mênh mông hân hoan nhưng cũng vừa trống rỗng đến lạ. Mười chín tuổi, tôi nhận được món quà độc lập, tự do mà cả dân tộc đánh đổi bằng máu xương mới có được. Nhưng tự do ấy được đặt trong tay tôi cùng với một khoảng trống không gì lấp đầy được-khoảng trống mang hình dáng của mẹ.

***

Giờ đây, khi tóc tôi đã nhuốm bạc, câu chuyện về con khỉ mẹ vẫn lẩn khuất trong giấc ngủ. Có những đêm, tôi mơ thấy mẹ bế tôi như ngày xưa, bàn tay gầy guộc vỗ về sau lưng. Có những chiều nhận tiền trợ cấp thân nhân liệt sĩ, tờ tiền run run trong tay, tôi như thấy mẹ hiện về, dúi vào tay đứa con trai đã già của bà và nói: “Cầm lấy mua thuốc cao huyết áp uống cho đúng bữa đúng giờ, nghe con”.

Tôi hay nghĩ, tình mẹ giống như dòng sữa. Nó không cạn khi đứa trẻ thôi bú, mà âm ỉ chảy mãi trong từng mạch máu, từng giọt nước mắt. Dù mẹ đã đi xa, nhưng mỗi lần tôi nhắm mắt nhớ về, vẫn thấy một vị ngọt thanh thanh trên đầu lưỡi. Đó là vị của cuối nguồn sữa mẹ.

leftcenterrightdel
Nhà văn Lê Quang Trạng. 
“Cuối nguồn sữa mẹ” là câu chuyện kể về sự kiên cường, những hy sinh của người mẹ cũng như quân và dân ta trong chiến tranh. Tiết tấu truyện chầm chậm mà da diết, tình cảm, nó hướng người ta phải sống tốt hơn trong từng phút giây, sống vì người thân của mình, đồng bào mình, đất nước mình. Sống và giữ gìn trọn vẹn nền hòa bình không dễ gì có được của ngày hôm nay. (Nhà văn ĐINH PHƯƠNG)

Truyện ngắn của LÊ QUANG TRẠNG