*
* *
Bữa đó ngồi ở quán cà phê vỉa hè, vô tình bác Năm gặp lại bác Hai Quai, một người bạn xưa, cũng là một đồng nghiệp làm nghề thợ săn nổi tiếng. Phải nói đây là một con người rất đặc biệt: Nhà bác Hai Quai có truyền thống săn cọp từ trước thời Pháp thuộc, chứ không phải dạng săn lặt vặt mấy con thú nhỏ. Hai người bạn xưa gặp nhau, họ nhớ ra đủ thứ chuyện, tất nhiên sâu đậm nhất là nhớ rừng. Thế là họ rủ nhau lên núi Bà Rịa kiếm chú thỏ về nhậu chơi. Không ngờ hai người cưỡi xe đi cả tuần...
Đêm ấy, trời tối đen như mực, hai người rong ruổi mòn cả đế giày nhưng chả thấy được con thịt gì. Lớp mệt lớp bụng đói, hai người quyết định ngồi nghỉ lại bên bờ suối. Bỗng bác Năm quất đèn phát hiện một con cheo nhỏ đang bò bên một gốc cây, thế là coi như hai ông già đã có con mồi nhắm rượu. Bác Hai Quai nhúng con cheo vào nước cho ướt rồi gom củi đốt lửa hơ cho nóng lên, rồi mới dùng dao cạo lông cho sạch. Đợi than rực hồng thì mới chéo cây nướng con thịt. Còn bác Năm lấy muối ớt và rót rượu trong bình toong ra…
Hai con người lãng nhân sơn dã như sống lại thế giới của ngày xưa…
Nhưng thật kỳ lạ, bác Năm vừa nuốt miếng thịt cheo vào bụng thì trong người chợt nghe ớn lạnh và cơn đau khủng khiếp bắt đầu kéo đến khắp người. Nhất là chỗ ống chân trái như bị chạy nọc dữ dội, giật ngã lăn ra đất, và bị hành không khác gì người bị tà nhập. Bác Hai Quai hoảng cả hồn, chưa biết xử trí thế nào thì vừa lúc ấy có một ông già người dân tộc Cơ Ho vác chà gạc rọi đèn đi tới, thấy bác Năm đang thoi thóp dưới đất, ông liền đến xem. Ông ta vạch mắt bác Năm ra soi rất kỹ rồi nói:
- Ông này bị chàm quạp lửa cắn rồi!
Ông ta hỏi bác Năm nhức nhiều từ chỗ nào? Bác Năm chỉ ống chân trái. Nhưng ông già Cơ Ho quan sát thì quả thực chẳng có dấu vết con rắn nào cắn cả. Xong, ông ta đọc lẩm nhẩm bài kinh gì đó rồi nhìn thẳng vào bác Năm phán:
- Ông mắc phải lời thề!
Bác Năm ngẩn người một lúc rồi như nhớ ra một điều gì đó...
Ông già Cơ Ho kêu bác Hai Quai phải chạy ra thị trấn mua nhang đèn lễ vật vào cúng rừng và tạ lỗi với rừng rồi sẽ khỏi. Nói xong ông nhét vào miệng bác Năm một cái rễ cỏ gì đó rồi phủi tay rảo đi mất hút trong bóng rừng đêm dày đặc…
Quả thật như lời ông già Cơ Ho nói: Cúng vái xong, hai ngày sau bác Năm phục hồi lại được và lững thững bước đi ra khỏi chốn núi rừng…
*
* *
Ngày ấy, gia đình tôi từ giã đất Sài Gòn lên vùng kinh tế mới lập nghiệp. Ngoài việc trồng tỉa lúa rẫy, khoai mì, bắp… thì cha tôi và bác Năm còn làm thêm cái nghề bất đắc dĩ là săn thú rừng. Nói tới cái nghề này thì phải nhớ đến bác Điệp. Bác Điệp là bộ đội xuất ngũ, ông có tài thiện xạ, bách phát bách trúng. Rời quân ngũ, gia đình lâm vào hoàn cảnh túng khó trăm bề như bao người lúc bấy giờ, nên bác ấy phải đi làm củi. Nhà bác Điệp bên xứ Thạnh Bình của Tân Biên, nhưng bác thường qua đây khai thác củi để bán kiếm tiền, cuối tuần mới đạp xe mang tiền về nuôi cả gia đình nheo nhóc.
Mỗi lần qua đây khai thác củi, bác Điệp thường ghé nhà tôi chơi với cha tôi và bác Năm. Bác Năm là người về từ bên kia chiến hào của cuộc kháng chiến, nay sống cùng mọi người trên vùng kinh tế mới đầy rẫy cam go. Nhưng bác Năm lại là một người am tường nhiều thứ, từ nghề đóng ghe xuồng cù trên sông nước cho đến nghề đi rừng. Chính vì vậy mà bác Điệp rất quý và chơi thân với bác Năm. Hai người ấy cùng với cha tôi hiểu ý nhau lắm. Họ trở thành huynh đệ sinh tử chi giao, hết nghề khai thác củi rồi tới nghề đi săn rừng…
Thuở ấy từ khu kinh tế mới Tha La qua khỏi xã Suối Dây là bạt ngàn rừng già. Nơi đây muông thú sinh sống rất nhiều, giữa những dãy rừng mây mù mịt, cây cối thấp cao, dây leo chằng chịt là những con suối ẩn mình như những con trăn khổng lồ đang chầm chậm trườn qua, uốn lượn giữa các cánh rừng bạt ngàn thâm u cô tịch. Mỗi chuyến đi săn là phải chuẩn bị từ ngày hôm trước tất cả mọi thứ. Sáng sớm hôm sau là cha tôi, bác Năm và bác Điệp sẵn sàng khăn gói để lên đường. Thường là đi thì vài ba hôm sau mới về, mỗi chuyến đi săn vậy đem về nào chồn, thỏ, heo rừng, cheo, nhím… oằn cả đòn gánh. Tất cả đem chợ bán, chia nhau mỗi gia đình cũng kiếm đủ gạo dùng được vài ngày.
Thật lòng mà nói, làm cái nghề này trong rừng đêm gặp muôn vàn nguy hiểm chứ hoàn toàn không phải là chuyện đùa. Có lần đang theo dấu một con heo rừng ở cây số 18, nay thuộc xã Suối Ngô, thì bác Năm bị rắn cắn. Biết là chạm phải rắn độc, bác Năm vội bắn tín hiệu lên trời, cha tôi và bác Điệp liền cắt rừng từ những hướng khác tìm đến hỗ trợ. Khi đến nơi thì bác Năm toàn người đã lạnh và cứng chỉ còn trên ngực là âm ấm.
- Có sao không anh Năm?
Cha tôi hốt hoảng hỏi, bác Năm hối thúc:
- Chặt hột nọc ra nhanh đi, rắn cắn rồi!
Cha tôi chặt hột nọc để lấy nọc nhưng vì gấp vội quá nên hột nọc văng đi mất trong rừng đêm. Bác Năm coi như hết hy vọng. Trong cái giây phút thập tử nhất sinh đó, bác Điệp cũng vừa vác bồng đựng cheo tới. Bác Năm tôi thều thào cầu nguyện và thề:
- Nếu số con chưa mãn, Tà Rừng cho con nuốt chín cái mật cheo này mà cầm cự được ra khỏi rừng thì thề từ nay con sẽ không săn cheo, không ăn một miếng cheo nữa!
Bác Điệp nhanh như cắt, liền lấy dao lê rọc tất bụng các con cheo trong bồng, mổ mật cheo cho bác Năm uống. Xong, bác Điệp xốc bác Năm lên lưng và bắt đầu cõng bác Năm vượt rừng. Lúc bấy giờ khoảng một giờ khuya, rừng đêm như chìm vào hơi thở của hoang vu vắng lặng. Những ánh sao trời như những con mắt xoi mói của vũ trụ xuyên thấu giữa những tầng cây. Họ như đang theo dõi xem bao chúng sinh đang hụp lặn trong trò chơi sinh tử dưới cõi ta bà này thế nào. Bác Điệp vẫn băng rừng vượt suối với bao dây gai kéo xước, bao nhánh cây đâm... Mặt mày tay chân bác Điệp máu ơi là máu. Nhưng chuyện đó hầu như không hề hấn chi với một con người từng vào sinh ra tử. Bác cứ cắt rừng theo hướng Nam mà đi. Vậy mà đến khoảng 5 giờ sáng thì mọi người mới ra đến suối Tà Ly. Bác Năm vẫn còn âm ấm nơi ngực trái. Mũi bác còn thoi thóp thở...
Vừa đến bờ suối thì gặp ngay một ông già người Chăm đang sa cá. Ông già người Chăm này rất nổi tiếng với nghề chữa trị rắn cắn. Bác Điệp để bác Năm ngồi dựa vào một gốc cây. Ba tôi liền chạy đến cầu cứu ông già Chăm. Ông già Chăm leo ra khỏi sa cá, bước đi theo cha tôi. Đến cạnh bác Năm, ông nhìn bao quát một cái rồi ông vạch mắt bác Năm ra xem và nói:
- Ông này bị chàm quạp lửa cắn từ đầu hôm!
Nói xong, ông kêu cha tôi đến cái chòi của ông gần đó và nói vợ ông đưa thuốc mài ra với nước cho mà uống. Thấy cha tôi đến, bà già Chăm hiểu ý liền nói:
- Rắn cắn rồi phải không?
Cha tôi dạ rồi theo chỉ dẫn của bà mà lấy từng loại cây thuốc giắt trên vách chòi, mài với nước sền sệt, hòa vào chút rượu nếp đựng trong cái sừng trâu đem cho bác Năm uống. Uống thuốc xong, nằm chừng nửa giờ thì người bác Năm bắt đầu ấm lại dần… Thế là bác Năm được cứu!
Bái tạ ông thầy Chăm, cha tôi thì gánh tất cả hành lý và thịt rừng. Bác Điệp thì tiếp tục cõng bác Năm gần 20 cây số nữa để về nhà. Khi chia tay, ông già Chăm đã đưa cho cha tôi mỗi loại thuốc một nhánh và dặn về cứ hai giờ thì cho uống một lần cho tới khi khỏe hẳn thì thôi…
Mấy mươi năm trôi qua, chuyện rất cũ mà cũng rất mới. Bác Năm như hồi tưởng lại. Bác Điệp thì đã về với đất, nhưng tình nghĩa của bác vẫn còn đây. Một con người chí tình chí nghĩa với anh em, nhất là trong hoàn cảnh nguy khốn. Và hình ảnh những cánh rừng xưa từng nuôi sống biết bao con dân thuở mới lên lập nghiệp ở chốn này. Rừng không đơn giản chỉ là nơi nương náu, trú ngụ của cỏ cây, muông thú, mà rừng còn có hồn rừng trú ngụ. Có thế mới biết thế nào là rừng núi linh thiêng. Lời thề tuy chỉ đơn giản là từ miệng nói ra, nhưng thật tình nó vẫn có sự linh ứng mầu nhiệm riêng của nó, nó là âm vang của cõi rừng thiêng đấy!
Bác Năm nay đã già yếu, nhưng chuyện xưa vẫn ám ảnh nơi đáy lòng của bác. Bác thường hay nói với tôi:
- Đừng bao giờ thề bậy bạ, lung tung và cũng đừng bao giờ phản bội lời thề, nhất là với núi rừng linh thiêng. Cổ nhân đã dạy: “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt”. Có tin ắt phải có linh! Trong cuộc sống có những cái ta nhìn thấy và nói rằng nó có thì đã đành, nhưng cũng có những cái ta không hề nhìn thấy mà nó vẫn có, con ạ!
Truyện ngắn của ĐÀO THÁI SƠN