Dương Thị Xuân Quý sinh trưởng trong một gia tộc nổi tiếng ở Hà Nội. Ông nội Dương Trọng Phổ và bác ruột Dương Bá Trạc là những người tham gia trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục bị thực dân Pháp đày đi Côn Lôn. Bố chị, nhà giáo Dương Tụ Quán là người sáng lập Văn học tạp chí và Tạp chí Tri Tân vào thập niên 1930-1940. Bác ruột là học giả danh tiếng Dương Quảng Hàm. Ông có người con là Lê Thi (Dương Thị Thoa)-cô gái được vinh dự kéo cờ trong ngày Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập ở Quảng trường Ba Đình năm 1945, sau này trở thành một giáo sư triết học tên tuổi. Hai người anh họ là con một người bác ruột khác cũng là những danh họa nổi tiếng: Dương Bích Liên và Dương Cẩm Chương...
Lẽ thường thì chị có thể ngẩng đầu kiêu hãnh vì xuất thân “danh gia vọng tộc”, lại là con gái phố cổ Hàng Bông, nhưng sau khi hòa bình lập lại, hòa vào cuộc sống mới, chị sống giản dị như con em của mọi gia đình lao động bình thường ở Thủ đô. Chị khẳng định mình bằng công việc, bằng ý chí và hoàn thành xuất sắc công việc của một phóng viên báo và lặng lẽ viết văn. Rồi chị viết đơn tình nguyện “đi B”. Chị học cách chấp nhận những trận đói quay đói quắt, với bom pháo của giặc, với những trận sốt rét rừng... Chị đã đương đầu với những khó khăn đó như mọi đồng đội từng vượt Trường Sơn tham gia cuộc chiến tranh giải phóng đất nước thời bấy giờ... Khác chăng là do chị nhỏ yếu hơn, lại là phụ nữ nên vất vả hơn nhiều. Nhưng đói và cực khổ đến đâu thì chị đều chịu được. Chỉ khi ốm đau thì vừa không được đi mà cũng không đi được, không viết được, lại trong cơn mơ, hình ảnh con gái cứ hiện về đánh thức tình cảm mà chị cố giấu, đánh thức trách nhiệm mà từng có lúc khiến chị ân hận, giày vò. Đây là những dòng nhật ký chị để lại: “Cả đêm mơ thấy Ly. Lạ sao, cứ ốm, mệt là y như rằng Ly lại đến bên mẹ. Nhớ Ly khủng khiếp. Từ hôm vào đây chưa ai thấy mình khóc. Nhưng chính thực thì mình đã khóc thầm khá nhiều. Lạ thế, trước gian khổ, mình chịu đựng một cách lì lợm, không kêu một tiếng, không rên một lời... Nhưng những gì thuộc về tình cảm thì mình lại không thể nào chịu nổi...”.
    |
 |
Lễ tưởng niệm 50 năm Ngày nhà văn, nhà báo Dương Thị Xuân Quý hy sinh do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ngày 8-3-2019 |
Cũng lại lạ thế, mỗi lần nhớ đến con thì dường như sự “hy sinh” của con đưa lại cho chị nghị lực mới. Chị xông xáo trong công việc, đam mê với nghề, nhẫn nhịn trước khó khăn, chấp nhận mọi thử thách và yêu thương, chia sẻ với mọi người, đó là Dương Thị Xuân Quý... Tập truyện Chỗ đứng (xuất bản sau khi chị vào chiến trường) nằm trong nền chung văn xuôi của thập niên 1960 thể hiện được công cuộc lao động, sản xuất của thanh niên, chủ yếu là của phụ nữ nông thôn đang góp phần xây dựng cuộc sống mới. Có lẽ khi xác lập “chỗ đứng” của nhân vật trong xã hội thì trong Dương Thị Xuân Quý cũng bắt đầu hình thành ý thức muốn vượt thoát ra khỏi không gian của vùng đất quen thuộc hằng ngày mà dường như chị cảm thấy có phần chật hẹp đối với niềm đam mê và công việc của mình. Hướng về tiền tuyến lớn như mọi người dân miền Bắc lúc bấy giờ, chị quyết định viết đơn xin vào chiến trường, nơi có những con người đang sống cuộc sống một mất một còn với kẻ thù để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Ở đó chị lại làm quen và hăm hở trong công việc mới, lại tiếp tục viết về những người phụ nữ anh hùng bình dị, về cuộc sống bom đạn đầy khó khăn, hiểm họa nhưng có niềm vui của lòng tin vào lý tưởng, vào tương lai. Các truyện ký: “Niềm vui thầm lặng”, “Gương mặt thách thức”, “Tiếng hát trong hang đá”, đặc biệt là “Hoa rừng” in trong tập Hoa rừng xuất bản sau ngày chị hy sinh cùng nhiều dự định đang còn dang dở khác đã cho thấy ở chị một ngòi bút hứa hẹn những triển vọng tốt đẹp.
Nhưng cái dũng cảm hơn người của Dương Thị Xuân Quý còn ở cái khác thường xứng đáng được tôn vinh là anh hùng. Đó là cuộc chiến đấu thầm lặng với nỗi nhớ con. Chồng đã “đi B” trước chị một năm. Con gái nhỏ của anh chị mới 16 tháng tuổi. Là phóng viên, chị thường xuyên phải đi công tác kể cả vào tuyến lửa Khu 4. Xa chồng, nuôi con trong hoàn cảnh ấy đã khó khăn rồi. Vậy mà chị vẫn quyết định gửi con lại cho mẹ để vào chiến trường. Hành trang chị mang vào chiến trường lúc ấy không chỉ là cái ba lô to nặng hơn cơ thể chị cùng với khát vọng văn chương, mà còn là nỗi nhớ con mỗi ngày càng se thắt. Hành trang ấy nặng hơn cái ba lô hằng ngày đè trên vai chị. Trong thư gửi Phan Thị Thanh Nhàn, chị viết: “Nếu Nhàn có con, Nhàn sẽ thông cảm hơn với mình. Có lúc chỉ hát bài “Ru con” thôi mà lòng bỗng dưng tê buốt và mình khóc một mình mình thôi”. Có lẽ không ngày nào chị không nhớ đến con, trên đường hành quân, khi ngả lưng trên võng, khi ngắm ánh sao trời, nhất là khi ốm đau, chạy giặc, khi đối diện với cái chết... Con gái bé bỏng thường hiện về trong giấc mơ của chị, lành có nhưng dữ cũng nhiều. Một nhà văn đồng đội của chị đã nói rằng: “Quý hy sinh ở vùng sâu, lúc ấy đồng nghiệp, đồng chí của chị đều ở xa. Không ai nghe được lời nói cuối cùng của chị khi chị ngã xuống. Riêng tôi, tôi cứ tin lời cuối cùng của chị là một tiếng gọi: Con!”.
Trước khi lên đường vào Nam, chị được một ngày về thăm con. Nghĩ đến cảnh con gái phải xa bố và giờ lại xa mẹ, lòng chị không khỏi xót xa. Trên đường đi, đối mặt với vất vả, đói, tiếp xúc với những anh bộ đội, được biết về hoàn cảnh cụ thể và tâm trạng của họ khi nghĩ đến vợ con ở quê, chị viết trong nhật ký: “Thế mới thấy hết những sợi dây níu kéo người ta lại... Khi sắp đi, mình sao thấy hết. Bây giờ mình mới thấy xa Ly khó làm sao”...
Khi chiến tranh xảy ra, tính mạng con người bị đe dọa, gia đình ly tán là điều ai cũng biết. Nhưng nói như nhà thơ Nam Hà “khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Vợ chồng Dương Thị Xuân Quý với con gái của họ là một trường hợp cụ thể. Đấy là một “bi kịch lạc quan”. Chị Quý nhớ thương con nhưng đã biến nỗi nhớ ấy thành nghị lực trong công việc hằng ngày. Chị cũng chuẩn bị cho mình tâm thế để có thể chấp nhận bất ngờ tình huống không may xảy đến. Chị đã viết: “Sống giữa không khí mặt trận đầy nguy hiểm nhưng cảm giác của mình là say mê và thú vị. Lạ thế. Biết là nguy hiểm lắm nhưng vẫn sẵn sàng lao vào, dù có hy sinh. Đời người ai chả chết. Dĩ nhiên là mình có nghĩ đến đau khổ của anh và Ly. Nhưng cái gì rồi cũng sẽ qua đi thôi. Đó là ý nghĩ của mình khi được phân công đi công tác Quảng Đà từ nay đến cuối tháng 3-1969”. Những dòng nhật ký trên đây viết vào ngày 15-12-1968. Có thể coi đó là những dòng cuối cùng trong cuốn nhật ký của chị, vì ngày 17-12, tức hai ngày sau, chị ghi tiếp được thêm mấy dòng về Hội nghị sáng tác của Tiểu ban văn nghệ Khu 5 họp chung với lực lượng bên khu ủy và quân khu trong cảnh đói thiếu, giữa tiếng phản lực gào rú, tiếng B-57 và B-52: “Chúng nó đang đánh Quảng Đà điên cuồng”. Và buổi chiều chị lại lên cơn sốt...
Lần đi công tác ấy, chị đã không trở về. Dương Thị Xuân Quý mất đi nhưng hình ảnh, tâm hồn và tinh thần của chị vẫn còn lại, vẫn sống trong lòng người thân và bạn đọc như một tấm gương sáng về lòng yêu nước, yêu nghề, về sự hy sinh và lòng dũng cảm. Chị đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học-nghệ thuật. 50 năm chị ra đi và cũng là hơn 40 năm giang sơn nước ta quy về một mối, đóng góp cho chiến thắng này, các văn nghệ sĩ không chỉ có trên phương diện tác phẩm. Với trường hợp của Dương Thị Xuân Quý, còn là đóng góp trên phương diện nhân cách, tinh thần. Chị là một hình mẫu sống động của một nữ nhà văn dám hy sinh với ý nghĩa đầy đủ nhất!
PGS, TS TÔN PHƯƠNG LAN