Văn chương-nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng viết về chiến tranh và người lính đã, đang và sẽ còn nhiều. Riêng trường ca viết về Bộ đội Biên phòng, theo sự đọc của tôi thì thấy từ trước đến nay không nhiều lắm. Điều ấy có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng trước hết phải khẳng định đây là một mảng đề tài khó, đòi hỏi người viết phải đầu tư nhiều công sức, trí tuệ và cả sự nhiệt huyết.

Tôi đã đọc hầu hết các tập thơ của Vân Anh, nhưng có lẽ đến Sa mộc tôi nhận ra một Vân Anh rất khác; từ cách chọn đề tài, lập tứ, kết cấu… đến giọng điệu, ngôn ngữ thơ. Nếu so với những tập thơ trước đây của Vân Anh thì Sa mộc là một bước tiến trong phong cách thơ của chị. Cũng đều là những tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh và đều được biểu đạt bằng ngôn ngữ thi ca, nhưng bố cục, lập tứ, nội dung, phạm vi bao quát, giọng điệu kể chuyện… của trường ca lại hoàn toàn khác xa so với những bài thơ ngắn. Trường ca hiện đại là sự tiếp nối, kế thừa có chọn lọc từ sử thi cổ đại, nhưng đặc trưng thể loại dường như không có sự xáo trộn lớn về kết cấu chương, hồi… và lối kể chuyện. Bởi bố cục của trường ca hiện đại và sử thi cổ đại đều là các lát cắt lịch đại theo cách kể lại những câu chuyện lịch sử đã từng xảy ra, hoặc được hư cấu qua lăng kính chủ quan của nhà thơ mà vẫn bảo đảm được sự hài hòa thống nhất trong bố cục và lối kể. Nhưng chắc chắn giọng kể chuyện lịch sử chậm rãi, nghiêm mặc của trường ca sẽ rất khác sự ngân rung vào một thời khắc nhất định nào đấy mà chúng ta thường thấy ở những bài thơ ngắn. Như nhà thơ đã xử lý trong trường ca Sa mộc một câu đồng dao: Ông Đếm cát, ông Tát bể, ông Kể sao, ông Đào sông, ông Xây rú.../ Chuyện xửa chuyện xưa bà kể thắm môi trầu...

leftcenterrightdel
Trường ca Sa mộc với khoảng 70 trang in, được chia thành 7 chương: Miền dã sử; Ký thác; Thang trời; Mưa giêng hai; Gối đầu lên ban mai; Mở núi Thức cùng non sông. Nhìn vào tên mỗi chương, người đọc có thể sơ bộ hình dung ra nội dung bên trong của chúng. Lấy cây Sa mộc làm biểu tượng trung tâm, toàn bộ câu chuyện kể xoay quanh hình tượng này. Sa mộc là loài cây cùng họ với thông, phi lao, dương liễu... Đó là loài cây lá kim, dáng thẳng, cành ngang theo từng lớp, tán cây hình chóp nón, cây to sống lâu năm cao tới gần 60m, vỏ thân cây sần sùi. Loại cây này thường được trồng ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên, những nơi có biên giới tiếp giáp với các nước làng giềng như Trung Quốc, Lào. Sa mộc có sức sống bền bỉ, dẻo dai trên các triền núi đá với thời tiết và khí hậu rất khắc nghiệt.

Vì thế, không ít người coi loại cây này như là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, lâu bền, bất chấp phong ba, bão táp, thiên tai và cả “nhân tai” của dân tộc Việt nói chung, các dân tộc thiểu số sống ở vùng phên giậu của Tổ quốc nói riêng. Điều này không phải đến bây giờ mới thế, trái lại nó đã được chứng nghiệm từ ngàn xưa: Dặm dài miền dã sử/ Gặp những thân cây độc hành xé đá sinh sôi/ Vạm vỡ tiêu binh miền phên giậu/ Khảm cao xanh chí khí quật cường/ Sa mộc gom gió thành lời yêu khiến lòng núi, lòng người thôi khắc khoải/... Vì sức sống lâu bền và sự tồn tại hàng trăm năm nên sa mộc chính là chứng nhân lịch sử từ thuở hồng hoang đến thời hiện đại: Gánh nặng trăm năm trên lớp vỏ sần sùi/ Rì rầm kể công người kiến tạo địa tầng sinh tụ...

Có thể nói, từ ngàn xưa, ở những vùng biên viễn xa xôi, ở đâu có con người cư ngụ là ở đấy có sa mộc. Dù cho ở mỗi vùng miền tên gọi có khác nhau, nhưng bản tính ngay thẳng và sức sống bền lâu của sa mộc thì không bao giờ thay đổi: Ra biển thành phi lao, dương liễu/ Ơi những bóng cây thiêng/ Đã theo chân đồng bào, theo gió ngàn rừng về đất này đâm chồi nảy búp thì là anh là em, thì sâu rễ bền cành mà vươn lên ngay thẳng/... Nào ai xác tín đến đâu/ Nhưng ánh mắt người già sáng niềm tin như lạc rừng nhận ra sa mộc giữa mây mù/...

Vì thế, sa mộc không chỉ là biểu trưng cho ý chí quật cường, lòng dạ kiên trung của đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống dọc miền biên ải, mà nó đã trở thành biểu tượng của những cột mốc biên cương bất di bất dịch hàng ngàn đời nay của ông cha ta: Đất nơi này không thể mất/ Cho kẻ giành sông giật núi đã quen/ Có đội quân nào sặc sỡ hơn/ Khi đỏ, cam, chàm, tím, đen cùng vào trận...

Ở nơi ấy có đồng bào các dân tộc sẵn sàng gánh chịu thiên tai khắc nghiệt và cả những vòng xoáy nhân tai bất ngờ. Họ sẵn sàng làm những điều được cho là “phá lệ”, miễn sao giữ được miền đất ngàn năm do ông bà tổ tiên để lại: Chẳng ngại gió Lào, không nề gió bấc/ Dẻo dai hơn bóng tối/ Đồng bào tôi neo mình như thân ngô thân đậu, như con duối con nhồng/.../ Những ngôi nhà trổ cửa hướng biên cương/ Trái luật tục ngàn đời vì đất đai Tổ quốc. Đấy không chỉ là minh triết của con người đã từng hàng ngàn năm sống ở dải đất này, mà nó là lẽ tồn tại tự nhiên của đất trời như là minh triết của vũ trụ vậy.

Cùng với hai hình tượng trung tâm và cơ bản là sa mộc và đồng bào các dân tộc thiểu số, hình tượng chiến sĩ biên phòng nổi lên như một điểm nhấn, rực sáng trên bầu trời biên cương. Các anh ở khắp mọi miền đất nước cần phải “lớn vội” lên vì sự nghiệp bảo vệ bờ cõi non sông của ông cha đang chờ các anh: Lứa chúng con vội lớn/ Bỏ quên tuổi mình/ Quáng quàng ba lô, quáng quàng đạn pháo/ Quân chưa đầy năm đã ngược Hà-Tuyên, xuôi Thanh-Nghệ/ Ký ức biên cương dốc mắt rừng già/ Chưa quen đồn thạo chốt đã chai sần giá súng/...

Và: Người lính cứ như cây rừng ấy/ Vượt cằn khô bền gốc tươi cành/ Quân hàm... Uống hơi núi mà xanh/ Đượm nhựa rừng mà thắm... Sa mộc ưỡn ngực trai/ Đồn xa xanh áo lính/ Mồ hôi ươm chồi biếc/ Da sạm hong mùa vàng... Họ là thế đấy, không đắn đo suy tính, mọi việc diễn ra cứ tự nhiên như sa mộc ngàn đời bám trụ trên những đỉnh núi cao đầy nắng và gió, đầy mối hiểm...

Muốn viết được một trường ca như Sa mộc, với tư cách kể lại những câu chuyện đã từng xảy ra trong tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông bà tổ tiên ta cách đây hàng ngàn năm trên khắp miền biên viễn, thì phải am tường các sự kiện lịch sử. Chỉ xét ở khía cạnh này thôi, qua Sa mộc cũng thấy được sự cố gắng rất đáng ghi nhận của nữ nhà thơ mang quân hàm xanh Phạm Vân Anh. Đương nhiên mọi sự kiện lịch sử phải được thông qua một lối kể nào đấy của nhà thơ thì nó mới trở thành chất liệu ngôn ngữ và giọng điệu của trường ca. Với nỗ lực cá nhân không mệt mỏi, Vân Anh đã bước đầu làm được điều mà nhiều người mong đợi: Khắc đi là khắc đến/ Hội núi mở thong dong/ Khắc yêu thì khắc khoải/ Dặm dài non nước biên phòng… Lang thang miền dã sử/ Gọi ngàn năm mây bay/ Sa mộc đêm chốt lạnh/ Thức cùng non sông này…  

ĐỖ NGỌC YÊN