QĐND - Cuộc đời trận mạc của Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội khóa X và XI là những trận chiến đấu nối tiếp nhau: Trận tiến công, trận phòng ngự, trận luồn sâu, trận bao vây diệt viện... Theo nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh từng được cấp dưới suy tôn là “người chỉ huy đánh đâu được đó”…
Trung tá Trần Thị Minh Thi, Phó giám đốc Bảo tàng Tổng cục Hậu cần đưa chúng tôi vào thăm những kỷ vật kháng chiến của Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh. Chiếc ăng-gô méo mó không rõ màu sơn, chiếc vỏ chăn đã sờn và bạc trắng, chiếc bát sắt đã rạn men, gờ miệng đen xì. Chị Minh Thi nói: “Những hiện vật này, Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh đã dùng ở chiến trường, là minh chứng góp phần nói lên cuộc sống, chiến đấu nhiều gian khổ nhưng đầy kiên cường, dũng cảm …”.
 |
Vợ chồng Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh.
|
Tháng 11-1964, anh thanh niên làng Vĩnh Thượng, xã Khai Thái, huyện Phú Xuyên, Hà Nội đang học dở cấp 3, chia tay gia đình, quê hương lên đường nhập ngũ. Hơn 3 tháng sau, ngày 7-3-1965, anh tham gia trận đánh đầu tiên, là Tổ trưởng Tổ liên lạc của Đại đội 7, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 9, Sư đoàn B04, phục kích địch trên đường 23 ở phía đông Pha Lan (nước bạn Lào). Trong khi vận động truyền lệnh cho các trung đội, Nguyễn Phúc Thanh phát hiện địch có hiện tượng tháo chạy, đã đề nghị Đại đội trưởng Đinh Văn Xòe phát lệnh xung phong. Do đó, ta đã tiêu diệt 47 tên, bắt sống 7 tên, thu nhiều vũ khí, quân dụng, đại đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Nguyễn Phúc Thanh được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba. Trận tiến công căn cứ Đồng Hến thắng lợi, ngày 29-3-1965, Nguyễn Phúc Thanh được bổ nhiệm chức vụ Trung đội phó Trung đội 7, Đại đội 7 và thăng quân hàm vượt cấp từ Binh nhất lên Trung sĩ. Năm 1966, Thanh được về nước đào tạo sĩ quan tại Trường Quân chính Quân khu 4. Đầu tháng 10-1967, Đại đội phó Nguyễn Phúc Thanh được giữ Quyền đại đội trưởng Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 9, chỉ huy 50 tay súng đánh địch tại khu vực động Ông Do (Hải Lăng, Quảng Trị). Đây là trận đối đầu với hơn 200 tên lính thủy đánh bộ Mỹ. Với cách đánh áp sát (không phân tuyến) bất ngờ tiến công, đại đội đã tiêu diệt 98 tên Mỹ, làm bị thương hàng chục tên khác. Đại đội có 2 đồng chí hy sinh, 3 đồng chí bị thương nặng. Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh kể lại: “Sau mỗi trận đánh, đơn vị đều tổ chức bình công, báo công, tôi ném thủ pháo diệt 6 tên dưới hố bom nên được anh em bình “Dũng sĩ diệt Mỹ cấp 2”, nhưng điều quan trọng là chiến thắng đã mở ra phong trào “dám đánh Mỹ, áp sát Mỹ mà đánh, quyết đánh thắng Mỹ” ở Trung đoàn 9, Sư đoàn B04”.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Đại đội 6 có nhiệm vụ đánh chiếm dinh tỉnh trưởng, giải phóng nhà lao Thừa Phủ, chiếm Xưởng quân cụ rồi phát triển xuống khu làng Phước Quả, xây dựng trận địa chốt tại cầu bến Ngự, cầu Kho Rèn. Dù chưa có kinh nghiệm tác chiến trong đô thị và đồng bằng, Đại đội 6 có sáng kiến ghép bè bằng cây bương để vượt sông Hương, kết hợp nghi binh với tiến công đột phá, tiêu diệt và bắt sống gần 700 tên địch, góp phần giải phóng vùng nam thành phố Huế rồi chuyển sang phòng ngự tiến công suốt 25 ngày đêm. Đại đội được tặng Huân chương Chiến công hạng ba. Báo Quân giải phóng số đặc biệt ra ngày 25-1-1969, có viết: “Trong năm qua, Nguyễn Phúc Thanh đã chỉ huy đơn vị đánh 36 trận, riêng anh diệt 117 tên, 1 xe tăng, được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất. Trong chiến đấu, anh là một cán bộ chỉ huy có bản lĩnh, nắm chắc thời cơ, biết phán đoán địch, táo bạo xử lý xoay chuyển tình thế trong những tình huống hiểm nghèo, quyết giành thắng lợi”.
Đồng chí Lê Mạnh Cường, nguyên thư ký của Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phúc Thanh cho biết: “Trong hai nhiệm kỳ Quốc hội, với một tầm nhìn chiến lược, anh đã cùng tập thể lãnh đạo Quốc hội, tập thể Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh hoàn thiện và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, có tính nền tảng đối với lĩnh vực quốc phòng và an ninh như: Luật Quốc phòng, Luật An ninh quốc gia, Luật Biên giới quốc gia, Luật Phòng cháy, chữa cháy, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Công an nhân dân…
Năm 2003, một đoàn đại biểu Thượng, Hạ nghị viện Mỹ sang Việt Nam, trong đó có Hạ nghị sĩ Si-mân, nguyên là lính Mỹ tham chiến tại miền Nam Việt Nam và bị bắt trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Khi được biết Phó chủ tịch Quốc hội nước ta Nguyễn Phúc Thanh đã chỉ huy trên chiến trường Trị Thiên-Huế, họ rất bất ngờ và khâm phục. Về nước, ông Si-mân đã cùng Thượng nghị sĩ Giôn Mắc-kên (nguyên là phi công Mỹ bị bắn rơi máy bay, nhảy dù xuống hồ Trúc Bạch, Hà Nội) đã vận động thành lập Hội hữu nghị Việt-Mỹ trong Hạ viện và mời Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh sang thăm, dự buổi ra mắt.
Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu từng nói về Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh: “Trong chiến đấu, đồng chí có bề dày thành tích, đã lập nhiều chiến công, thành tích đặc biệt xuất sắc trong các chiến dịch mang tính lịch sử của quân đội ta như: Tập kích chiến lược Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Huế, Chiến dịch giải phóng Huế, Đà Nẵng, Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975. Đồng chí đã đánh 138 trận lớn nhỏ, trực tiếp tiêu diệt 176 tên địch, bắn cháy 3 xe tăng, một máy bay trực thăng… Các trận đánh đều giành thắng lợi, thương vong ít, được anh em cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền tin tưởng và suy tôn “Người chỉ huy đánh đâu được đó” trong lịch sử Sư đoàn B04 và Trung đoàn 9…”.
Bài và ảnh: Tô Kiều Thẩm