Tối ngày 28-3-1973, vừa hoàn thành nhiệm vụ chấp bút bài bình luận “Thất bại lịch sử của quân lực Hoa Kỳ”, tôi đang ngồi hàn huyên với anh em thư ký tòa soạn thì Tổng biên tập Nguyễn Đình Ước bước vào. Ông bấm vào vai tôi và bảo: “Hồng Phương lên ngay phòng tớ, trao đổi công việc rất cần”.

Biết ông đang dự tính một điều gì rất “nóng” trong đầu, tôi đi theo ông mà có phần hồi hộp. Vừa ngồi xuống ghế, ông nói ngay: “Cậu biết rồi chứ? Ngày mai, tại sân bay Gia Lâm, ta tổ chức trao trả cho phía Mỹ đám giặc lái cuối cùng, phần lớn là những tay lái B-52. Đây là cú “cất vó”, cú “chùy” nhất, nói lên thất bại nhớ đời của không lực Hoa Kỳ ở Việt Nam. Báo ta đã triển khai khá đậm vệt tư liệu và nghị luận rồi. Nhưng ngày mai, ta dứt khoát phải có bài ghi nhanh thật ấn tượng, tương xứng với sự kiện này. Ta đã thắng trên bầu trời và mặt đất. Bây giờ ta phải thắng cả trên công luận. Hồng Phương có thể vào cuộc thử thách này được chứ?”. Anh nói thêm “Cậu vừa viết bài bình luận về thất bại của quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam, cậu nắm rõ ý nghĩa thắng lợi của ta và sự thua đau của địch. Cậu phải làm bài ghi nhanh này”.

leftcenterrightdel

Chiếc máy bay vận tải C141 của Không lực Hoa Kỳ chuẩn bị cất cánh đưa 67 tù binh phi công Mỹ rời sân bay Gia Lâm (Nhà báo Hồng Phương, đầu trần ở phía trái bức ảnh).

Biết tính của “cụ Ước”, tôi chỉ còn cách chấp hành.

Lúc đó là khoảng 9 giờ tối. Ngoài trời mưa xuân lất phất. Tôi ngồi ở góc trong cùng tầng trệt căn nhà số 8 Lý Nam Đế, lật lại hồ sơ tư liệu, đánh dấu vào các bản tin tham khảo đặc biệt mấy ngày qua, xem dư luận Mỹ và phương Tây nói gì? Tôi nghĩ, đây là dịp cạnh tranh và đua chen quyết liệt, căng thẳng trong hoạt động của cả làng báo trong nước và quốc tế. Vấn đề quyết định ở đây là cái đầu và phương pháp tác nghiệp, sao cho có tài liệu độc đáo của riêng mình. Phải soi tìm, mài sáng các tài liệu quý của riêng mình.

Bỗng lúc này, tôi vụt nhớ đến Trung úy Dung, người tôi đã gặp tại Câu lạc bộ quân nhân bên sân Cột Cờ. Anh Dung là phiên dịch tiếng Anh ở các trại giam tù binh phi công Mỹ. Với thói quen nghề nghiệp, tôi đã xin địa chỉ nhà anh Dung.

Lúc đó là gần 10 giờ đêm. Mặc cho trời mưa nặng hạt, tôi vội khoác áo ni lông, đội mũ, lấy xe đạp phóng xuống Nam Đồng. Tới nơi, tìm được căn hộ nhà anh Dung, nhưng đèn hành lang tối tù mù. Lạnh quá, tôi cởi áo mưa rồi liều gõ cửa phòng. Gõ lần thứ nhất không ai thưa. Lần thứ hai vẫn yên ắng. Lại liều gõ cửa lần thứ ba. Lúc này có tiếng nói đàn ông giọng khàn khàn vọng ra:

- Ai đấy! Đêm khuya khoắt rồi…, có việc gì vậy?

- Tôi đáp: Xin lỗi! Có phải nhà anh Dung không ạ? Tôi là Hồng Phương ở Báo Quân đội nhân dân… Chắc anh còn nhớ.

- À! Nhớ rồi - có tiếng anh Dung nói vọng ra.

Đèn bật sáng. Anh Dung xuất hiện. Đúng như tôi dự đoán, anh Dung đặc trách dẫn chương trình ngày mai. Vì quy tắc bảo mật, anh không thể cho tôi tài liệu nhưng hứa sáng mai sẽ cho tôi bản sao lý lịch trích ngang toàn bộ 67 phi công Mỹ được ta trao trả.

Khoảng 11 giờ ngày 29-3, 70 chiếc xe chở các phái đoàn liên hợp quân sự 4 bên, các nhà báo Việt Nam và 67 nhà báo Mỹ và phương Tây tới trung tâm phát hành phim của ta ở gần Ngã Tư Sở - nơi tạm giam các tù binh Mỹ. Các nhà báo và các vị khách quốc tế bất ngờ được tận mắt nhìn cái trại giam đặc biệt, rất khang trang mà người Mỹ thường mệnh danh là “Khách sạn Hilton -

Hà Nội”. Quanh trại có những hàng cây xanh cắt tỉa xinh đẹp bao bọc. Phi công Mỹ bị bắt ngày càng nhiều nên cái cơ sở văn hóa này mới thành nơi giam giữ tù binh phi công Mỹ. Các sĩ quan Hoa Kỳ và các nhà báo phương Tây được ta hướng dẫn vào xem từng phòng. Có sách báo từ Mỹ gửi sang để trên bàn, đàn ghi-ta treo trên tường, phòng chơi bóng bàn ngay bên cạnh buồng ngủ… Viên đại tá Rốt-xơn, trưởng đoàn Mỹ chỉ có thể nói một câu trước các tổ chức quốc tế: “Tôi hoàn toàn thỏa mãn về trại giam này. Các phi công B-52 của chúng tôi bị bắt, được các ông nhân đạo, đối xử tốt”.

Đúng 13 giờ, 67 tù binh phi công Mỹ được chuẩn bị hành lý, tư trang để lên xe ra sân bay. Các tù binh không lực Hoa Kỳ xúng xính với chiếc áo blu-dông màu xanh da trời, quần xanh màu nước biển, chân đi những đôi giày đen bóng loáng, hầu như “vị” nào cũng mừng ra mặt. Mỗi phi công Mỹ còn được ta trao tặng một túi xách lớn màu ghi nhạt, đựng các đồ vật kỷ niệm như bút máy nhãn hiệu Trường Sơn, thuốc lá Điện Biên, xà bông Hà Nội, vài bộ quần áo tù kẻ sọc… để họ làm kỷ niệm khi trở về đoàn tụ với gia đình.

Tiếng nhạc vui trên loa nổi lên, rồi tiếng Trung úy Dung dõng dạc:

- Mời tất cả lên xe! Đã đến giờ ra sân bay.

Bỗng trong giây phút ấy, tôi lại nảy ra quyết định: Nhờ anh Dung cho đi cùng chiếc xe chở các tù binh phi công lái B-52. Vì đây là các nhân vật quan trọng nhất, ấn tượng nhất trong cuộc trao trả. Tôi nài nỉ anh Dung ngồi cùng để phiên dịch các cuộc phỏng vấn chớp nhoáng trên xe.

Khi chiếc xe buýt sơn màu lá ngụy trang vượt qua gò Đống Đa tới đầu phố Khâm Thiên, theo gợi ý của tôi, anh Dung cho xe đi rất chậm. Rồi anh đứng lên chỉ ra dãy dài phố xá đổ sụp tan nát và bảo:

- Đây chính là phố Khâm Thiên. Các phi công Mỹ tỏ ra sửng sốt. Nhiều người cụp mắt không dám nhìn. Tôi hỏi ngay Giêm Gioóc - một phi công B-52, tham gia rải bom Khâm Thiên và bị bắt trong đêm Noel:

- Khi nhận nhiệm vụ trên bản đồ Hà Nội, anh có thể hình dung được khung cảnh này không?

Gioóc trả lời ấp úng:

- Dạ! Lạy chúa! Tôi đã hành động theo lệnh của Oa-sinh-tơn. Thật khủng khiếp. Chúng tôi có lỗi…

Xe qua cầu Long Biên, đến gần cầu chui phố Gia Lâm, tôi lại nhờ bác tài cho xe đi chậm lại. Tôi chỉ cho các phi công Mỹ quan sát một dãy nhà bị bom Mỹ tàn phá, gần như san phẳng và bảo: “Trong dãy nhà đổ nát đó có một gia đình bị bom B-52 giết chết cả 3 người con, có em Đặng Thị Hà, 16 tuổi, rất yêu thơ và nhạc không lời. Trong đống đổ nát, tan hoang đó, các nhà báo chúng tôi đã tìm thấy một tập nhật ký thơ còn sót lại với nhiều bài thơ đầy mơ ước của em Hà”. A-lếch-xan-đơ người cùng quê với Tổng thống Giôn-xơn, ngồi cạnh tôi, đầu cúi xuống, rơm rớm nước mắt. Các bạn anh ta cũng vậy.

14 giờ 15 phút, đoàn xe dài gần một cây số về tới sân bay. 67 phi công Mỹ được anh Dung hô bằng tiếng Anh cho xếp thành đội hình hai hàng dọc. Tôi đặc biệt chú ý cái tên gọi cuối cùng trong đội hình “bám đuôi” hàng dọc hôm đó. Người dẫn chương trình đọc dõng dạc: Phi công thứ 67: An-phơ-rết Ác-niu, người mà tôi đã đánh dấu đậm nhất trong bảng danh sách trao trả. Y là thiếu tá hải quân, là phi công lái chiếc máy bay trinh sát RA5C bị bộ đội ta bắn rơi trên bầu trời Hà Tây ngày 28-12, khi y đang tìm kiếm đồng bọn lái B-52 bị sa lưới lửa phòng không Hà Nội. Lúc đó sân bay như sôi động hẳn lên. Các hãng tin, các đài truyền hình đều chĩa ống kính vào An-phơ-rết Ác-niu để ghi lại thật nét, thật sâu cái hình ảnh một cột mốc, một thời khắc đánh dấu sự thất bại lịch sử của không lực Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Chớp thời cơ, tôi kéo anh Minh Điền, phóng viên ảnh cùng tòa soạn, cùng bám theo Ác-niu và lao tới sau đuôi chiếc máy bay vận tải quân sự đang mở cả 3 cánh cửa để đón các phi công tù binh Mỹ. Bị các chiến sĩ bảo vệ của ta và các nhân viên an ninh Mỹ ngăn lại, tôi bảo anh Điền bấm ngay mấy kiểu ảnh. May quá, có một kiểu ghi được hình của tôi, là phóng viên duy nhất tiến sát được chiếc máy bay đang chờ sẵn Ác-niu.

Thời gian trao trả chuyển động rất nhanh. Tôi nhờ được các anh chị ở Bộ Ngoại giao, nhờ phiên dịch mấy cuộc trò chuyện, phỏng vấn các phóng viên Mỹ. Mắc-con Brao, một phóng viên kỳ cựu của Thời báo New York, nói với tôi: “Khi quân đội Mỹ theo lệnh của Nhà Trắng, lao vào cuộc chiến tranh Việt Nam, nhân dân Mỹ chúng tôi rất sửng sốt. Một chuỗi dài những ngày đen tối đã qua. Bây giờ nó đang đi đến kết thúc. Những người Mỹ chân chính, những gia đình đã có con em sang Việt Nam chinh chiến có thể thở phào nhẹ nhõm. Thật sự tôi muốn cảm ơn nhân dân Việt Nam, cảm ơn các bạn Việt Nam!”.

Đúng 15 giờ 20 phút, 3 cánh cửa từ hai bên và dưới đáy chiếc máy bay C141 mang số hiệu 50238 từ từ khép lại, ôm trọn vào lòng nó những bằng chứng biết nói cuối cùng về sự thất bại nhớ đời của không lực Hoa Kỳ…

Tôi thở phào nhẹ nhõm, vì trong đầu, trong sổ ghi chép phóng viên đã có đủ chất liệu cho bài ghi nhanh. Tôi cùng anh Minh Điền nhảy lên chiếc xe U-oát của báo nhà, trở về số 7 Phan Đình Phùng. Cơn đói và cơn khát bắt đầu ùa tới… Gần 5 giờ chiều, về đến tòa soạn, tôi xin ngồi viết ở một góc phòng thời sự. Tít của bài ghi nhanh “bật” ra ngay: “Giờ chót của những tên phi công Mỹ bị bắt cuối cùng trên miền Bắc”. Tôi đã có khá nhiều tài liệu quý, sống động cho riêng mình, theo hướng chủ đề mình đã chọn. Mạch viết hiện ra rõ ràng, cuốn hút. Có lẽ hiếm khi tôi viết được nhanh và thông suốt như thế. Tới gần 9 giờ tối, bản đánh máy dài khoảng 2.500 từ đã được nộp cho anh Nghiêm Túc, đang tập sự Phó tổng biên tập. Anh đọc rất hào hứng và chỉnh lại rất kỹ, trước khi đưa cho Tổng biên tập Nguyễn Đình Ước duyệt. Rất lạ! Tổng biên tập đọc rất nhanh, không sửa và hạ một câu chắc nịch:

- Bài ghi nhanh rất cuốn hút, xứng tầm. Báo ta có thể “làm bàn” rồi Hồng Phương ạ!

Sáng sớm hôm sau, trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, cả buổi phát thanh Thời sự, buổi phát thanh Quân đội nhân dân, buổi phát thanh Thành thị miền Nam đều phát bản ghi nhanh này. Gần như cả buổi sáng 30-3, tôi được các bạn đồng nghiệp chia vui, chúc mừng. Tới gần trưa, sau khi họp nhận xét báo hằng ngày, anh Nghiêm Túc gọi điện cho tôi và mời:

- Tớ “khao” cậu một tô phở bên phố Quán Thánh nhé.

HỒNG PHƯƠNG