Những đặc điểm ấy của Luật khiến cô giáo Mai không xếp cậu vào đội tuyển thi học sinh giỏi văn lớp 10, niên khóa 1970-1971 của huyện Kiến Xương, mặc dù với hầu hết các bài tập làm văn, cô đều cho cậu điểm cao hơn so với điểm của các bạn trong đội tuyển.

Ngay từ khi cắp sách đến trường, Phạm Tiến Luật đã là “đầu trò” trong các chuyện nghịch ngợm trẻ con và không sợ ai bắt nạt. Bạn bè coi cậu là chỗ dựa mỗi khi đi học qua làng khác. Tuy vậy, Luật rất chăm chỉ học hành nên kết quả khá tốt, nhất là các môn văn, vẽ, thường được thầy giáo, cô giáo chỉ định đọc mẫu, vẽ mẫu trên lớp.

Vào học cấp 2 (năm 1966) giữa lúc đế quốc Mỹ leo thang, mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Luật là nhóm trưởng của nhóm bạn 6 người, gồm: Luật, Tùng, Triều, Hưng, Chinh, Hỷ cùng góp trứng, chuối, gạo, khoai… nấu bữa ăn thề: “Cam kết làm việc tốt, nói lời hay. Không bẻ cành cây, hái quả của gia đình bộ đội cho ngỗng ăn (nhóm thường chơi với những chú ngỗng của bà con trong xóm thả rông). Tích cực hưởng ứng phong trào thi đua làm theo 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng, tuổi nhỏ làm việc tốt, góp phần chống giặc Mỹ xâm lược”.

Những ngày bộ đội trú quân ở làng để chuẩn bị đi B, Luật vận động toàn nhóm thu gom lông gà, lông vịt, mảnh chai, bóng đèn vỡ… bán cho hàng đồng nát, góp tiền mua hai bao thuốc lá Trường Sơn tặng tiểu đội của anh Hoàng Giò đóng quân ở chùa làng. Các anh vô cùng cảm động, dạy nhóm tập tiết mục “Hò kéo pháo” để tham gia liên hoan văn nghệ. Luật phân công các bạn chuẩn bị đạo cụ, dùng giấy màu, giấy bạc ở bao thuốc lá làm quân hàm. Trưởng nhóm đeo “trung úy”, do nghe thấy các anh chị trong làng hát trêu bộ đội: “Tình tính tình em đi rình trung úy”… Lại lấy đũa xe đạp mài làm dùi, luồn sợi chỉ gai khâu bìa các tông thành bao súng lục đeo cho oách. Hôm các anh bộ đội lên đường, cả nhóm đến chia tay, mắt đỏ hoe…

Thấy các anh chị dân quân tập luyện SSCĐ chống giặc, Luật dẫn cả nhóm bắt chước, đánh trận giả, mục tiêu là phi công Mỹ bị rơi, lấy cây cói cắt ở đồng làng mang phơi khô và cả dây tháo ở võng hỏng, bện lại chăng hàng rào, lấy tàu lá chuối tươi làm súng. Cũng lăn lê, bò toài, chiếm điểm cao, bắt tù binh... được các anh chị dân quân khen ngợi.

Luật ham đọc sách, rủ bạn bè góp sách làm một “thư viện” (là cái lều sách) tại nhà. Cậu mê mẩn tiểu thuyết “Phá vây” của nhà văn Phù Thăng và từng lấy cả sách Tam Quốc của cụ Nguyễn Ảnh ở làng để đọc. Cuốn “Đội du kích thiếu niên Đình Bảng” ngày ấy đã trở thành cơ duyên để mối quan hệ giữa Phạm Tiến Luật với bà con ở Đình Bảng (Bắc Ninh) sau này khăng khít mãi.

Tháng 9-1969, Luật vào học lớp 8. Ngày ngày, cậu đi bộ 7km đến Trường cấp 3 Bắc Kiến Xương, rồi lại quay về. Thầy Thông, chủ nhiệm lớp giao cậu làm lớp phó. Luật đặc biệt thích thú những “Đêm kể chuyện truyền thống” do nhà trường tổ chức. Anh Các, anh Huyên đi bộ đội về theo học tiếp, được giới thiệu lên kể lại chuyện ở quân ngũ, góp phần hun đúc lý tưởng, lòng yêu nước, tinh thần sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc… cho thanh niên. Nhiều anh chị đang học lớp 10 đã “tốt nghiệp đặc cách”, xung phong ra trận.

Tháng 5-1971, đang nghỉ hè chờ nhận bằng tốt nghiệp cấp 3 (lớp 10), vì muốn làm công an nên Phạm Tiến Luật đi khám sức khỏe và trúng tuyển. Nhưng người bác họ là cán bộ Công an huyện Kiến Xương không muốn cho Luật vào ngành vì sợ cậu không chịu nổi hiểm nguy, vất vả. Luật nằm suy ngẫm, e rằng bị mang tiếng là “con chủ tịch xã mà trốn bộ đội”, anh tình nguyện tòng quân, nói rõ với xã đội là muốn lên đường ngay!

Xã Thanh Tân giao quân vào ngày thứ ba, 11-5-1971. Hôm ấy là ngày 17-4 (âm lịch). Có người khuyên anh tránh ngày 17, xuống huyện từ hôm trước. Anh cảm ơn nhưng vẫn đi đúng ngày quy định. Được Ban tổ chức buổi lễ giao phát biểu cảm tưởng, anh đọc: “Măng non thay lớp tre già/ Đời con nối tiếp đời cha diệt thù. Thay mặt anh em nhập ngũ, chúng tôi sẵn sàng lên đường và sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ra đi giữ trọn lời thề/ Đánh tan giặc Mỹ mới về quê hương”. Ông Phạm Lục nghe con trai phát biểu, rất phấn khởi. Luật được chỉ định làm Tiểu đội trưởng lâm thời. Anh nhớ mãi câu nói của đồng chí Chính trị viên Huyện đội: “Anh em ta hãy vững vàng tiến tới, đừng làm gì ô nhục đất Kiến Xương này!”. Chia tay, ông Lục nhìn vào mắt con trai, dặn dò: “Gian khổ gắng chịu, rèn luyện cho tốt để làm tròn nhiệm vụ con nhé! Rảnh thì viết thư về cho bố mẹ!”. Lúc ấy, anh mới sực nhớ ra là mình quên mang theo giấy viết thư. Thấy thế, một cô gái đi tiễn người thân lấy trong túi xách quyển vở 48 trang, đưa cho anh, làm anh nhớ mãi.

Sau mấy tháng huấn luyện ở miền Bắc, Phạm Tiến Luật theo đoàn quân vào tận Trà Vinh-miền quê kết nghĩa với tỉnh Thái Bình quê anh và bắt đầu cuộc sống chiến đấu, giải phóng miền Nam… để 39 năm sau, Quân đội ta có thêm một “tư lệnh” ngành quân nhu-Thiếu tướng, Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tiến Luật.

PHẠM XƯỞNG