Sau đó, Vũ Lăng được điều động ra Bắc, lần lượt đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy quan trọng: Trung đoàn phó Trung đoàn Thủ đô, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98 đánh Điện Biên Phủ. Trong chiến tranh chống Mỹ, ông là Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, Phó tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên, Tư lệnh Quân đoàn 3... Ông mất năm 1988.

Thượng tướng Vũ Lăng là người cương trực, thẳng thắn trong chỉ huy, ông còn là người yêu thích nghệ thuật, thích xem tranh anh em bộ đội sáng tác và thẳng thắn phê bình các tác phẩm của đồng đội. Trong lần đến thăm họa sĩ Phan Kế An, lúc ấy là chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô, thấy họa sĩ vẽ nhiều tranh ký họa về bộ đội, ông xem kỹ từng bức tranh. Sau khi xem, Vũ Lăng hỏi: “Cậu vẽ bộ đội ở đâu đấy? Đâu phải bộ đội của Trung đoàn Thủ đô? Bộ đội Trung đoàn Thủ Đô phải thấy sự phong thái, lịch lãm của người Hà Nội chứ?”. Họa sĩ Phan Kế An giật mình nhìn lại bức tranh quả đúng là như vậy. Yêu cầu khắt khe về nghệ thuật của Vũ Lăng ngày ấy đã “khích tướng” cho họa sĩ Phan Kế An sau này trở thành danh họa tài năng của ngành mỹ thuật nước nhà. Vũ Lăng còn là người rất gần gũi với mọi người và chiến sĩ, những lúc xuống thăm anh em chiến sĩ ông thường chia thuốc cho chiến sĩ, bắt nhịp cho bộ đội hát bài “Kết đoàn”, ông luôn “xuề xòa” với cấp dưới, được mọi yêu quý và tiếp thêm tinh thần cho bộ đội đánh giặc... 

Nhắc đến Thượng tướng Vũ Lăng, không thể không nhắc đến đóng góp to lớn của ông trong Chiến dịch Tây Nguyên với đòn điểm huyệt Buôn Mê Thuột, làm rung chuyển và thay đổi cục diện toàn bộ chiến trường, tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

PHÙNG KHAI