QĐND - Đại sứ Pa-lét-xtin tại Việt Nam Saadi Salama có thể thu hút, hấp dẫn bất kỳ người Việt Nam nào đối diện bằng cách sử dụng tiếng Việt thành thạo. Thậm chí, ông có thể dùng cả tiếng “lóng” một cách rất “duyên” khiến cả những nhà nghiên cứu ngôn ngữ học phải thán phục. Nhân Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23-11-1945/23-11-2016), Ngài Đại sứ Saadi Salama đã có cuộc trò chuyện cởi mở với phóng viên Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần về truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong suy nghĩ và cảm nhận của ông.

Phóng viên (PV): Thưa Ngài Đại sứ, Ngài có cảm nhận như thế nào về truyền thống và bản sắc văn hóa của Việt Nam?

Đại sứ Saadi Salama: Gọi từ Ngài Đại sứ nghe có vẻ xã giao, để nói chuyện cho vui vẻ, bạn có thể gọi tôi là anh, vì tôi lớn tuổi hơn mà!

Thực lòng mà nói, tôi đã quan tâm đến đất nước Việt Nam từ khi còn rất trẻ. Khi còn là một cậu học sinh 12 tuổi, tôi đã đọc báo và theo dõi tình hình Việt Nam rất nhiều. Đó là những năm tháng Việt Nam có chiến tranh, các bạn đang đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và giữ gìn, bảo vệ nền văn hóa của mình. Tôi đã theo dõi những năm tháng oanh liệt nhất, hào hùng nhất của dân tộc Việt Nam qua những trang sách lịch sử dịch bằng tiếng Pa-lét-xtin. Sự quan tâm đến Việt Nam của tôi xuất phát từ nét tương đồng giữa hai dân tộc chúng ta. Cả Pa-lét-xtin và Việt Nam đều trải qua biết bao thăng trầm, biến cố để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của mình. Hơn thế nữa, cả hai dân tộc chúng ta đều giàu ý chí quyết tâm đấu tranh vì độc lập, tự do. Vì thế, năm 1980, khi được nhận 3 suất học bổng tại hai nước phương Tây và Việt Nam, tôi đã chọn Việt Nam để có thể tìm hiểu sâu hơn về đất nước, con người đáng mến nơi đây. Sau khi tôi sang Việt Nam và học tiếng Việt thì tôi thêm trân trọng, yêu quý Việt Nam hơn bao giờ hết. Sự yêu mến đó đã giúp cho tôi vượt qua rào cản ngôn ngữ để tìm đến bản sắc văn hóa của người Việt. Văn hóa Việt Nam có thể nói ngắn gọn trong 5 chữ, là “dựng nước và giữ nước”. Người Việt Nam luôn luôn có một ý chí quật cường, lòng yêu quê hương tha thiết và hơn thế nữa, luôn sẵn sàng hy sinh để bảo vệ quyền độc lập, tự do của dân tộc. Qua hàng nghìn năm lịch sử, tất cả các thế lực ngoại bang dù hùng mạnh đến đâu, khi xâm phạm đến Việt Nam đều phải quay đầu “một đi không trở lại”.  

Đại sứ Saadi Salama. Ảnh: Khánh Lan

Người Việt Nam đã trải qua nhiều khổ đau, mất mát trong quá trình dựng nước và giữ nước, cho nên các bạn rất trân quý hòa bình. Các bạn là nguồn cảm hứng, cổ vũ, động viên tất cả các nước thuộc địa vùng lên đấu tranh đòi lại tự do cho dân tộc mình. Đất nước Pa-lét-xtin cũng đã giác ngộ điều đó, sau chiến thắng lịch sử của Việt Nam trước hai cường quốc Pháp và Mỹ lúc đó để có được nền độc lập, tự do. Việt Nam luôn tạo cho tôi một niềm tin, cảm hứng để luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng; nhân dân Pa-lét-xtin luôn lấy tấm gương Việt Nam để phấn đấu.

PV: Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, điều gì khiến Ngài ấn tượng nhất?

Đại sứ Saadi Salama: Văn hóa của Việt Nam khiến tôi quá yêu và quá ấn tượng. Trước hết là tiếng Việt. Chúng ta có thể thấy rất rõ ràng, đó là tiếng Việt có một sự truyền cảm mà không có ngôn ngữ nào có thể có được. Khi mà bản thân tôi biết được tiếng Việt thì thực sự tôi hiểu mình đã cầm được chiếc chìa khóa để hòa mình làm một với trái tim con người Việt Nam. Khi đã có được trái tim của người Việt Nam thì mối quan hệ đó sẽ vô cùng ý nghĩa. Tôi khẳng định nếu mà ai muốn hiểu lịch sử, bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán của Việt Nam thì học tiếng Việt chính là bước đi đầu tiên quan trọng nhất. Cũng như có nhiều từ tiếng Việt mà dịch ra tiếng nước ngoài không thể rõ nghĩa, tròn chữ, do đó càng thôi thúc tôi học tiếng Việt mà càng học, tôi càng hiểu rõ về văn hóa của con người Việt Nam hơn. Tìm hiểu văn hóa Việt Nam luôn luôn tạo cho tôi một cảm giác mãnh liệt như là tìm hiểu về chính cội nguồn của dân tộc Pa-lét-xtin vậy. Văn hóa Việt Nam phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, bao gồm văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể. Tôi thấy nền văn hóa phi vật thể của Việt Nam quá đỗi giá trị. Đến bây giờ, theo tôi được biết, người Việt Nam có rất nhiều bí quyết sống mà trên thế giới đều quan tâm, nhất là những bí quyết để chung sống và ứng xử hợp quy luật thiên nhiên; chống lại thiên tai, lũ lụt. Cũng có nhiều người nước ngoài có thể đọc biết được bí quyết của người Việt Nam nhưng họ sẽ không hiểu nó có ý nghĩa gì. Bởi vì, muốn hiểu được thì phải tìm hiểu phong tục, tập quán của người Việt nữa. Do đó, nhiều sự việc sâu xa như các chiến thắng vẻ vang năm 1954 tại Điện Biên Phủ buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơ-ne-vơ. Hay là những chiến thắng của Việt Nam dẫn tới Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri năm 1973… Tất cả những chiến thắng ấy luôn phải đánh đổi rất rất nhiều sự hy sinh, cống hiến thầm lặng mà người ngoài ít ai có thể hiểu được cho đến khi có những nghiên cứu sâu sắc về văn hóa Việt Nam như ngày nay.

Việt Nam là một dân tộc, một đất nước giàu bản sắc văn hóa. Tôi nghĩ các bạn phải biết phát huy tiềm năng của chính mình để có thể tiếp tục giúp đất nước mình có một vị thế ngày càng quan trọng trên thế giới. Tôi rất tự hào là người Ả-rập đầu tiên đã dịch được một số tác phẩm từ tiếng Việt sang tiếng Ả-rập. Đó cũng chỉ là một sự đóng góp rất nhỏ bé, sau nhiều năm tôi sống tại Việt Nam. Tôi cũng rất may mắn khi được trò chuyện cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp về những vấn đề làm thế nào để giành được độc lập dân tộc. Đại tướng đã chia sẻ với tôi rất nhiều chuyện vô cùng sâu sắc về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Từ đó, tôi đã quyết tâm dịch một tác phẩm nói về Đại tướng và Chiến dịch Điện Biên Phủ. Chủ đề tác phẩm đó là “5 điều kỳ diệu chưa từng có trong chiến tranh”. Không chỉ xuất bản bằng sách mà tác phẩm đó còn được đăng trên báo tại Pa-lét-xtin. Người dân Pa-lét-xtin chúng tôi rất quan tâm và ngày càng muốn tìm hiểu nhiều hơn về văn hóa Việt Nam. Hiện nay, ở Pa-lét-xtin, bất cứ một học sinh nào học xong cấp III đều có hiểu biết nhất định về lịch sử Việt Nam. Bởi vì, trong giáo trình dạy học ở Pa-lét-xtin, khi nói về cách mạng giải phóng dân tộc thì Pa-lét-xtin lấy Việt Nam làm ví dụ để cho người dân hiểu rằng, dân tộc nào có chính nghĩa thì nhất định sẽ chiến thắng, còn phi nghĩa nhất định sẽ thất bại.

Tôi cũng hay giúp các cơ quan Việt Nam dịch các thông tin, nội dung từ tiếng Việt sang tiếng Ả-rập. Tôi nghĩ trong tương lai, khi về hưu thì bản thân tôi sẽ tiếp tục đóng góp phần nhỏ làm cầu nối hữu nghị giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa các nước Ả-rập nói chung và Pa-lét-xtin nói riêng. Chúng ta cần phải thúc đẩy mối quan hệ văn hóa vì sự hiểu biết của người Việt Nam với thế giới Ả-rập dù đầy tiềm năng nhưng còn rất là hạn chế và ngược lại. Văn hóa Việt Nam hiện nay đã vô cùng phong phú, đa dạng nhưng trong thời kỳ toàn cầu hóa, nền văn hóa mỗi dân tộc phải luôn được bổ sung, trau dồi mới có thể bền vững mãi mãi.

PV: Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Ngài có thể cho biết văn hóa Việt Nam và Pa-lét-xtin có điểm nào tương đồng, điểm nào khác nhau ?

Đại sứ Saadi Salama: Chỉ riêng nghiên cứu văn hóa dân gian thôi, tôi đã thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa văn hóa Việt và văn hóa Pa-lét-xtin. Ví dụ như trong kết hôn, tổ chức đám cưới, dạm ngõ, ăn hỏi đều hoàn toàn giống nhau cả. Hay như lúc sinh con hoặc khi một ai đó qua đời đều có những nghi lễ khá giống nhau. Mặc dù vậy, người Pa-lét-xtin vẫn có sự khác biệt lớn ở tôn giáo, người Pa-lét-xtin theo nhiều đạo giáo trong đó có đạo Hồi. Tôi hy vọng trong tương lai, bản thân mình sẽ có đủ thông tin để viết được một cuốn sách nói về điểm tương đồng và khác biệt của văn hóa hai nước. Từ đó giúp nhân dân hai bên hiểu nhau hơn, gắn kết nhau hơn và cũng thông cảm cho nhau về những điểm khác nhau. Chẳng hạn như trong ngày Tết ở Việt Nam có đi thăm nhau, mừng tuổi, chúc Tết nhau thì trong văn hóa Ả-rập hoàn toàn không có.

PV: Ngài có thể chia sẻ đặc điểm nào trong văn hóa người Việt mà ngài yêu thích nhất không?

Đại sứ Saadi Salama: Tôi thích nhất tính cách của người Việt Nam, người Việt từ xa xưa đã coi trọng tôn ti, trật tự. Trong tiếng Việt có những từ phân ngôi thứ như “con, cháu, chắt, chút, chít”. Ngôn ngữ các nước phương Tây rất phát triển và phổ biến, nhưng không có nước nào có hệ thống từ ngữ diễn đạt ngắn gọn và chuẩn xác những tôn ti, trật tự trong dòng tộc một cách hệ thống như vậy. Nghe người Việt nói chuyện, có thể đoán ra vai trò, vị trí và quan hệ giữa họ, ví dụ như “cô, dì, chú, bác”... Nói cụ thể hơn là cách xưng hô của người Việt khi tiếp xúc khiến bất cứ người nào cũng đều biết vị trí của mình ở đâu. Ví dụ đâu là người chú, đâu là người cháu, người bác hay đâu là người cậu. Tôi đã biết vị trí của tôi ở đâu nên trên tinh thần đó sẽ hoàn toàn ứng xử đúng với vị trí mà mình đang có. Người dưới kính trọng người trên. Tính cách đó đã góp phần định hình Việt Nam là một xã hội có trật tự. Đặc trưng rất đáng quý này đã giúp cho xã hội Việt Nam trong mắt tôi không còn phức tạp mà cực kỳ đa màu sắc. Tôi nghĩ là có rất nhiều vấn đề xảy ra trong xã hội Việt Nam và họ có thể giải quyết ngay tại chỗ mà không cần phải đến các cơ quan chính quyền để giải quyết. Bởi vì người Việt Nam biết mình ở đâu, như thế nào, ra sao từ chính cách xưng hô với nhau trong xã hội.

Trong thời kỳ Việt Nam hội nhập, chính việc coi trọng tôn ti, trật tự sẽ giúp người Việt có cách đối nhân xử thế đúng đắn. Tôi nghĩ, nếu mà chúng ta không có một nền văn hóa bền vững như thế này thì xã hội Việt Nam sẽ rất là “lộn xộn” và sẽ có rất nhiều vấn đề phát sinh. Các nước đang phát triển khi hội nhập đều gặp phải những vấn đề khó xử như vậy. Cho nên, người Việt cần phải gìn giữ bản sắc nền văn hóa một cách cẩn trọng, tiếp thu văn hóa bên ngoài có chọn lọc để dù có đi ngược hay về xuôi, cả thế giới vẫn nhận ra đó là người Việt Nam với những giá trị và niềm tự hào to lớn. Nếu mà chúng ta bị “lẫn lộn”, pha tạp nhiều yếu tố văn hóa của các nước khác thì sẽ chẳng ai nhận ra chúng ta là người nước nào cả. Có thể nói, bản sắc văn hóa là thẻ căn cước rất sang trọng, rất quý để tạo dấu ấn riêng biệt của người Việt Nam trong một thế giới ngày càng “phẳng”.

PV: Ngài có thể chia sẻ về một điểm gì đó của người Việt Nam mà người nước ngoài như Ngài không thích?

Đại sứ Saadi Salama: Việt Nam đã hội nhập rất sâu rộng, khách nước ngoài đến Việt Nam ngày càng nhiều. Điều tôi không thích là khi tôi đi trên đường phố Việt Nam, vẫn còn thấy những cách ứng xử chưa lịch sự. Ví dụ như có một số người khi thấy tôi luôn gọi là “ông Tây” hoặc “thằng Tây”. Theo tôi, thay vì gọi như vậy, chúng ta hãy gọi là khách du lịch hoặc người nước ngoài thì sẽ thấy rất là lịch sự và không hề có cảm giác là đang xem thường người đối diện, hay người bên cạnh mình. Tôi nghĩ, người Việt Nam phải nhận thấy rõ hơn rằng đất nước, con người Việt Nam được rất nhiều người trên thế giới quan tâm, kỳ vọng. Có rất nhiều người nước ngoài biết tiếng Việt, do đó người Việt cần phải làm nhiều việc hơn nữa nhằm tạo ra hình ảnh một đất nước, một dân tộc thân thiện.

PV: Trân trọng cảm ơn Ngài!

HồNG HẢI - ANH MINH (thực hiện)