Rất nhiều đồng chí trở thành tướng lĩnh, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Trung tướng, PGS, TS Đỗ Viết Toản, Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1 đã dành cho Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần cuộc trò chuyện thân mật về truyền thống và phong cách đào tạo của nhà trường.

Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, có câu thơ rằng: “Dù ai đi ngược về xuôi/ 15 tháng 4 nhớ người lục quân”. Hằng năm, cứ đến ngày 15-4 thì ở khắp các đơn vị trên mọi miền đất nước, các thế hệ cán bộ, sĩ quan đã từng công tác, học tập, rèn luyện tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 đều nhắc nhau niềm tự hào về một thời “Bộ đội lục quân”. Đề nghị đồng chí cho biết, ngày 15-4 đã trở thành Ngày truyền thống của nhà trường như thế nào?

Trung tướng, PGS, TS Đỗ Viết Toản: Theo lịch sử truyền thống nhà trường thì để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ từ ngày 15 đến 20-4-1945 tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình, hội nghị nhận định: “Tình thế đã đặt ra nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này”. Từ đó, Trung ương Đảng chủ trương nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang và quyết định thống nhất Cứu quốc quân với Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Đáp ứng những yêu cầu trên, việc đào tạo cán bộ quân sự làm nòng cốt cho đấu tranh chính trị của quần chúng trở nên bức thiết. Do đó, Trung ương xác định chọn ngay trong bộ đội một số đội viên khá huấn luyện trở thành đại đội trưởng và chính trị viên; mở Trường Quân chính kháng Nhật; thu dung nhân tài, lớp đầu lấy một số học sinh chuyển lên Chiến khu Việt Bắc dạy quân sự.

Với sự kiện lịch sử vẻ vang đó và để lưu giữ kỷ niệm, tiếp tục giáo dục truyền thống, phục vụ công tác giáo dục, đào tạo cán bộ cho các thời kỳ sau này, Đại hội đại biểu Đảng bộ nhà trường lần thứ nhất năm 1960 quyết định, lấy ngày 15-4-1945, ngày Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ quyết định mở Trường Quân chính kháng Nhật, làm ngày chính thức thành lập nhà trường. Từ đó, ngày 15-4 hằng năm trở thành ngày kỷ niệm truyền thống của Trường Sĩ quan Lục quân 1 ngày nay.

leftcenterrightdel
Trung tướng, PGS, TS Đỗ Viết Toản.

PV: Là nhà trường quân sự đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, ắt hẳn trong nội dung huấn luyện cũng có nhiều điều đặc biệt, thưa đồng chí?

Trung tướng, PGS, TS Đỗ Viết Toản: Đồng chí Hoàng Văn Thái, Giám đốc đầu tiên của nhà trường (sau là Đại tướng, Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam) đã cùng ban giám đốc trực tiếp xây dựng chương trình và kế hoạch giảng dạy gồm cả nội dung huấn luyện về quân sự và chính trị.

Về quân sự, nhà trường tập trung huấn luyện cho học viên những nội dung như chiến thuật cá nhân, tiểu đội, trung đội chiến đấu du kích, sơ lược lý thuyết binh khí, bắn súng trường, đâm lê, đội ngũ. Cuốn sách “Cách đánh du kích” do lãnh tụ Hồ Chí Minh biên soạn được dùng làm tài liệu cơ bản để huấn luyện về chiến thuật. Đây là tài liệu giáo khoa quân sự đầu tiên của Đảng và quân đội, được các lực lượng vũ trang của ta vận dụng sáng tạo trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong cuốn sách, Người viết: “Chuyến này chúng ta vũ trang khởi nghĩa đánh Tây-Nhật, chính dùng lối du kích mà đánh. Biết đánh du kích thế nào cũng thắng lợi”; “Quân du kích thắng được kẻ thù chính nhờ lối đánh tài giỏi này. Quân du kích là đội quân thiên biến vạn hóa, xuất quỷ nhập thần, khéo dùng lối này thì trăm trận trăm được”. Cuốn sách còn chỉ rõ các cách đánh du kích cụ thể như: Tập kích, phục kích, quấy rối...

Về chính trị, nhà trường giảng dạy cho học viên nhận thức về tình hình trong nước, thế giới, chương trình và Điều lệ Việt Minh, công tác vũ trang tuyên truyền, công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở, 10 Lời thề danh dự, 12 Điều kỷ luật của Quân giải phóng Việt Nam.

Các tài liệu học tập và bài giảng được Ban tu thư biên soạn viết bằng tiếng Việt để phục vụ nghiên cứu, học tập của học viên và giảng dạy của giáo viên. Vì từ ngữ quân sự Việt Nam hiện đại chưa hình thành cho nên trường phải tự xây dựng, có khi phải tạm dùng một số từ Hán Việt. Ví dụ “lập chính” về sau mới đổi thành “đứng nghiêm” rồi “nghiêm”, “cơ bẩm” về sau đổi thành “khóa nòng”...

Những nội dung huấn luyện tuy còn đơn giản nhưng bảo đảm tính thiết thực, bám sát đường lối, chính sách của Đảng; quán triệt sâu sắc mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ này. Trong điều kiện khóa học đào tạo cấp tốc, ngắn ngày, giáo viên và các cơ sở vật chất phục vụ còn nhiều thiếu thốn, song chương trình, nội dung huấn luyện đã phù hợp với khả năng tác chiến và trang bị của Quân giải phóng, đáp ứng được những vấn đề cấp thiết trước mắt của người lãnh đạo, chỉ huy trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.

Đặc biệt, trong thời kỳ này, nhà trường được Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Chính phủ, quân đội trực tiếp tham gia soạn giáo trình và giảng dạy. Bác Hồ đã giao cho đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Võ Nguyên Giáp viết cuốn Công tác của người chính trị Chỉ đạo viên dùng để giảng dạy. Nhà trường còn vinh dự được các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp trực tiếp truyền đạt những bài giảng về chính trị.

PV: Vâng, chúng tôi cũng được nghe kể rất nhiều về sự quan tâm đặc biệt của Bác Hồ dành cho nhà trường. Đồng chí có thể chia sẻ với Báo QĐND Cuối tuần về câu chuyện này?

Trung tướng, PGS, TS Đỗ Viết Toản: Trong suốt chiều dài lịch sử 75 năm, nhà trường luôn được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quan tâm sâu sát. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm trường 9 lần và nhiều lần viết thư động viên. Đây là một vinh dự lớn của trường.

Theo lời kể của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đến thăm Trường Sĩ quan Lục quân 1 ngày 29-4-1970 thì ngay từ ngày đầu thành lập, Bác Hồ luôn theo sát việc giảng dạy và học tập của trường, Người rất muốn gặp và nói chuyện với học viên, song vì nguyên tắc giữ bí mật nên trường chưa thể đón và công khai giới thiệu Bác là lãnh tụ tối cao. Trong khu giải phóng, mọi người chỉ biết Bác là một “ông Ké” (tức một ông lão người Nùng). Các đồng chí trong Ủy ban lâm thời đã khéo léo bố trí để Bác tiếp xúc với học viên. Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể lại: “Gần cây đa Tân Trào có con suối. Hôm đó trường cho học viên đi tắm. Tôi báo cáo với Bác và mời Bác ra đám ruộng gần chỗ tắm. Khi anh em tắm xong thì Bác gặp. Khi gặp, Bác nói chyện rất tự nhiên, ân cần thăm hỏi tình hình mọi mặt, tình hình sinh hoạt học tập của anh em, tình hình làm ăn của đồng bào dưới xuôi... Anh em chỉ biết người gặp là một ông cụ người Nùng, sõi tiếng Kinh. Mãi sau này về Hà Nội, anh em mới rõ ông cụ đó là Bác Hồ”.

Ngày 26-5-1946, Khóa 8 Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn tổ chức lễ khai giảng tại sân trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Quân ủy hội Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Anh đã đến dự. Sau lễ chào cờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tận tay trao tặng nhà trường lá cờ đỏ trên có thêu 6 chữ vàng: “Trung với nước, hiếu với dân”. Người nói: Trung với nước, hiếu với dân là một bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta. Từ đây, “Trung với nước, hiếu với dân” trở thành mục tiêu cao quý và tình cảm cách mạng truyền thống quý báu của lớp lớp các thế hệ của nhà trường. Đồng thời cũng là mục tiêu, phẩm chất cao quý của các nhà trường và của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

PV: Còn về học viên, chúng tôi nghe nói, ngay từ khóa đầu, nhà trường đã có học viên nữ?

Trung tướng, PGS, TS Đỗ Viết Toản: Đúng vậy, đây là điều rất thú vị trong lịch sử công tác đào tạo của nhà trường. Việc chiêu sinh khóa 1 được tiến hành bí mật. Chấp hành Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, cấp ủy và Ban Việt Minh các địa phương, trong Đội quân giải phóng chọn những đảng viên, đoàn viên, chiến sĩ hăng hái, khỏe mạnh cử đi đào tạo. Nhiều địa phương thuộc khu vực Việt Bắc và một số nơi thuộc vùng xuôi, do đường sá xa, nhiều cách trở, có nơi bị quân Nhật và tay sai kiểm soát nghiêm ngặt nên việc đi đến trường gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi phải đi đêm, xuyên rừng, trèo đèo, lội suối, nhịn đói, nhịn khát. Nhờ tổ chức dẫn đường chu đáo của Mặt trận Việt Minh, 82 người đến được Tân Trào. Đây là những người con ưu tú của các dân tộc Kinh và Tày, có lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm đi theo con đường đấu tranh vũ trang để giải phóng dân tộc. Số học viên tới trường, có người là học sinh đại học, trung học, có người mới biết đọc, biết viết, trong đó có 6 học viên nữ, đó là các chị: Vân, Liên, Phương, Ngọc, Thanh, Cầm.

Tôi nghĩ, sự có mặt của 6 học viên nữ trong khóa 1 của nhà trường là minh chứng cho truyền thống “Anh hùng-Bất khuất-Trung hậu-Đảm đang” và “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của phụ nữ Việt Nam.

PV: Là nhà trường quân sự đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, trải qua 75 năm xây dựng và trưởng thành, theo đồng chí, nét đặc trưng văn hóa của nhà trường là gì?

Trung tướng, PGS, TS Đỗ Viết Toản: Bản chất, tinh hoa, nét cô đọng nhất của những truyền thống 75 năm xây dựng, phát triển của nhà trường được thể hiện ở 6 chữ vàng trên lá cờ Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng trường ngày 26-5-1946: “Trung với nước, hiếu với dân”. Đó là bản chất của quân đội cách mạng, là kết tinh của truyền thống, lý tưởng cao đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, trước hết được thể hiện ở đội ngũ sĩ quan. Từ khi bước vào quân ngũ, vào học tập ở nhà trường để trở thành sĩ quan quân đội, mỗi người đều xác định rõ mục tiêu, lý tưởng phấn đấu suốt đời vì nước, vì dân, đặt lợi ích của nhân dân, của đất nước lên trên hết.

Trung với nước, hiếu với dân là truyền thống vẻ vang, là niềm tự hào, nguồn sức mạnh lớn lao và vô tận được tiếp nối cho các thế hệ lục quân, đó cũng là thành quả của quá trình tổ chức và thực hiện thắng lợi đường lối quân sự của Đảng trong các thời kỳ cách mạng.

PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!

ĐỨC LẬP - ĐẠI THỊNH (thực hiện)