QĐND - Dũng cảm và táo bạo, đã có nhiều bài báo viết về Trung tá Võ Trọng Hải trên cương vị Đồn trưởng Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo với không ít chuyện ly kỳ. Trong chuyến công tác mới đây, tôi được nghe Đại tá Nguyễn Thanh Bình, Trưởng phòng Quân nhu, Cục Hậu cần (Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng) “bật mí”: Võ Trọng Hải sắp rời Cầu Treo nhận trọng trách mới mang theo nhiều “chuyện lạ” như: Chuyện nuôi đà điểu, cá sấu, làm... mắm cá trên rừng; chuyện đang đi học thì được gọi về để xử lý “điểm nóng”...
Một ngày cuối thu ở Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo, trước ngày anh lên đường nhận quyết định về làm Phó chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh, tôi đã được nghe anh trải lòng mình về những chuyện lạ như thế.
 |
Mô hình chế biến nước mắm tại Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo (Hà Tĩnh) |
Người lính “nhà nông” làm giàu
Phóng viên (PV): Chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo của anh ở xứ xa xôi, khỉ ho cò gáy thế này mà lại nuôi được toàn thứ đặc sản như đà điểu, cá sấu, heo rừng, nhím. Hình như anh có vẻ mát tay với việc chăn nuôi?
Trung tá Võ Trọng Hải: Mát tay hay không thì không biết, nhưng tôi vốn là con nhà nông nên quen kham khổ, hay lam hay làm từ nhỏ. Ngày trước, vùng xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh quê tôi vốn đã nghèo, gia đình tôi lại đông anh em. Mẹ tôi mất quá sớm, còn mình bố nuôi 7 anh em. Sau tôi còn 3 em nhỏ nên tôi nghỉ học sớm, học xong cấp 3 là vào Đắc Lắc theo anh trai kiếm sống. Tôi làm việc cật lực một ngày hai buổi gánh nước tưới cà phê, làm đủ nghề kiếm tiền gửi về quê nuôi em ăn học. Quen với công việc nhà nông rồi nên sau này vào Bộ đội Biên phòng, tôi thường nhắc anh em tranh thủ tăng gia sản xuất. Cánh biên phòng tụi tôi thường sống ở vùng núi đồi, biên giới, đâu phải phồn hoa đô thị gì mà không chăn nuôi trồng trọt. Hơn nữa, biên phòng lại đóng quân phân tán, nhiều nơi xa chợ búa, cần phải biết tự lực cánh sinh. Từ khi có chủ trương của Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng xây dựng các đồn điểm về quân nhu với mô hình chăn nuôi, trồng trọt chuẩn, chúng tôi rất hưởng ứng. Như đồn chúng tôi ở vùng nắng hạn, gió Lào khô cằn đấy nhưng biết tổ chức thì có thể thu về hàng tỷ đồng từ tăng gia mỗi năm. Không chỉ làm đủ ăn mà chúng tôi đã làm được theo kiểu trang trại với từng ô vườn chia cho từng đội công tác, ban chỉ huy cũng ra vườn tăng gia. Hiện chúng tôi có đủ lợn siêu nạc, lợn rừng, trâu, bò, gà vịt, hón, nhím, cá sấu, đà điểu, gấu, khỉ, ếch, cá, tre, rau, cây ăn quả...
Có người hỏi vì sao làm được nhiều như vậy? Một phần vì anh em chịu học hỏi, một mô hình trang trại nuôi nhiều thứ thế nhưng chỉ cần ba người tập trung cho công việc chăn nuôi. Anh em có thể kết hợp làm nhiều việc, quân y cho đi học thêm thú y để lo việc chăn nuôi. Và điều quan trọng nhất là phải thực hiện “thực túc binh cường”, đừng nên nghĩ nước sông công lính mà phải trân trọng công sức của bộ đội, ai tham gia cũng được hưởng thành quả xứng đáng. Ngoài phần đưa vào bữa ăn, cải thiện đời sống, tính bình quân mỗi anh em đều được hưởng thêm 15-20 triệu đồng/người/năm.
PV: Đi trong khuôn viên đồn nằm ở miền rừng núi, tôi không hiểu tại sao lại có rất nhiều chum ủ nước mắm?
Trung tá Võ Trọng Hải: Đó chính là nhờ mô hình kết nghĩa giữa các đồn biên phòng tuyến rừng và tuyến biển được thực hiện tại Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh suốt 7 năm qua. Đồn chúng tôi kết nghĩa với Đồn 172 ở huyện Kỳ Anh. Chúng tôi ở miền rừng có lợi thế về khai thác gỗ, lâm sản, chăn nuôi nên có thể hỗ trợ đồn bạn các loại bàn ghế, giường, tủ, các loại thịt lợn, trâu, bò, gia cầm. Ngược lại, đồn biển có thể đánh bắt thu mua cá, tôm, hải sản hỗ trợ chúng tôi. Mấy chục chum mắm và nước mắm tự làm, tự ủ chính là nhờ Đồn 172 giúp. Việc kết nghĩa này rất hay, không chỉ có hiệu quả kinh tế mà còn tăng tình đoàn kết. Đồn tôi không chỉ tặng tất cả các đồn trong toàn tỉnh, kể cả đồn không kết nghĩa mỗi đồn 6 con bò làm giống mà chúng tôi còn đủ cả nước mắm làm quà tặng bạn Lào.
 |
Trung tá Võ Trọng Hải, Phó chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh Hà Tĩnh |
“Chống” và “xây”
PV: Sau 11 năm gắn bó với Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo, có những công việc gì khiến anh tâm huyết, trăn trở nhiều nhất?
Trung tá Võ Trọng Hải: Đã là đồn trưởng ở vùng biên giới thì việc gì cũng phải tâm huyết nhưng có một số mà tôi tâm huyết nhất. Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, trực tiếp là tội phạm ma túy ở vùng biên, có rất nhiều đối tượng nhiễm HIV, đã bị xã hội từ bỏ. Mà đã bị từ bỏ thì họ chán nản, lại đi dụ dỗ, đầu độc thanh niên, trẻ em. Nếu mình chỉ chống mà không xây thì không ổn. Chúng tôi đã suy nghĩ và đi đến quyết định không xa lánh họ, tạo công ăn việc làm, giúp đỡ họ. Họ từng sống với cái xấu, cái ác nên để phòng, chống những thứ đó, cuối cùng, chính họ lại là tai mắt cho mình. Chúng tôi có thể bắt đối tượng vượt biên, xâm nhập trái phép chỉ sau vài phút vì có nhiều tai mắt. Hay như việc duy trì chợ tự quản ở biên giới, chợ biên giới thì anh biết rồi đấy, thường rất phức tạp, tiềm ẩn nạn trộm cắp, cờ bạc, đâm chém... nhưng khi mình đã có những mắt xích rồi thì những nạn đó không còn.
Giải quyết những vấn đề ma túy ở vùng biên cũng là điều tôi rất tâm huyết. Có một vụ án ma túy mà khi phá án rồi, suốt mấy tháng liền tôi không sao ngủ được. Khi đánh án, ban đầu tôi đã ăn ngủ trong gia đình đối tượng mà chẳng ai nghi ngờ đối tượng lại ở ngôi nhà đó. Bố mẹ đối tượng rất quý tôi. Ông bà coi tôi như con đẻ. Khi phát hiện đối tượng buôn bán ma túy, tôi đã gọi đối tượng về, khuyên nhủ nhưng vì quá hám lời, anh ta không nghe. Cuối cùng thì anh ta bị bắt, với lượng hê-rô-in mang theo, bị khép tội tử hình. Trước ngày bị tử hình, cả gia đình, ông bà luôn gặp tôi trách mắng. Ngày anh ta bị tử hình, cả gia đình chít khăn tang trắng toát lên đứng quanh bàn làm việc của tôi. Họ nói tôi lấy oán báo ơn.
PV: Anh nhiều lần vượt qua được sự đe dọa tính mạng khi phá án như bị đối tượng trên biển đe dọa nổ xuồng đến sự đe dọa giết hại gia đình, bản thân. Nhưng lần này, với món nợ tình cảm này, anh giải quyết ra sao?
Trung tá Võ Trọng Hải: Tình cảm chỉ có thể được trả bằng tình cảm anh ạ! Phải mất một thời gian mọi việc nguôi ngoai, tôi mới đến, xin được gặp ông bà. Nhưng ông bà kiên quyết từ chối. Tôi xin chỉ được gặp để nói chuyện... 5 phút. Ông vẫn từ chối, nói: “Chú đã bắt và giết con tôi. Giờ định bắt tôi nữa hay sao?”. Sau gặp ông bà rồi, tôi ngồi chết lặng, không biết nói gì. Hồi lâu tôi mới nói: “Con rất đau lòng. Em bị bắt và với những việc em làm thì em đã phải chết. Nhưng nếu không bắt em thì còn hàng nghìn người sẽ phải chết. Bố mẹ hãy hiểu cho con”. Ông bà im lặng. Còn tôi trở về. Suốt ba tháng trời, không đêm nào tôi ngủ được. Tôi nằm mơ thấy anh ta, tôi thấy những vành tang trắng của ông bà, gia đình anh ta xung quanh mình. Tôi thầm nhủ, cần lo cho những người đang sống. Tôi vẫn lui tới động viên ông bà, giúp đỡ con cái đối tượng. Bây giờ thì ông bà đã gọi tôi là con trở lại. Còn con của đối tượng thì coi tôi như cha. Gần đây, cháu có biểu hiện chán nản, sợ gia đình khó khăn nên định bỏ học. Tôi đã về nhà khuyên nhủ, bàn với đồn giúp cháu và cháu đã đi học tiếp.
Duyên nợ trái tim người lính
PV: Mỗi người lính dường như đều có duyên nợ với một vùng đất, anh có cảm thấy như vậy đối với Cầu Treo và Hương Sơn, Hà Tĩnh?
Trung tá Võ Trọng Hải: Đúng là tôi có duyên nợ với mảnh đất này. “Duyên” tới mức có lúc xa nó lại bị... gọi về. Năm 2011, khi tôi đang ở Đà Lạt, ngồi trên lớp học thấy nóng ruột, về nhà mở điện thoại di động thì mấy chục cuộc gọi lỡ. Hóa ra là Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh gọi tôi về, nói là tình hình gấp lắm, phải xin về ngay. Ở nhà, vùng biên giới đang có sự cố, nhiều bà con giáo dân tụ tập, chính quyền đã giải thích, vận động nhưng chưa có kết quả. Biết tôi lúc công tác ở địa phương thường gắn bó, tiếp xúc với các cha đạo nhiều nên cấp trên gọi tôi về. Tôi về tới nơi, đi thẳng xuống địa phương. Ban đầu, dân chưa đồng ý tiếp xúc. Tôi gặp cha xứ nói: “Cha cứ cho con vào đối thoại với dân, đúng sai gì thì cũng nên nói thẳng với nhau”. Cuối cùng cha xứ đồng ý. Tôi đi cùng anh Chiến, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng tỉnh vào. Qua nói chuyện, tâm tình, người dân dần hiểu vấn đề, đồng ý để Bộ đội Biên phòng làm cầu nối với cấp ủy, chính quyền địa phương để họ đề đạt các nguyện vọng.
Để giải quyết vấn đề mình phải đến với bà con bằng cái tâm. Xưa nay trong công tác vận động quần chúng, có lúc có nơi ta thường nghĩ chỉ quan tâm nhiều tới các gia đình chính sách hay liên hệ mật thiết với cán bộ thôn, bản. Trước đây trong chiến tranh, bộ đội thường vào ở gia đình cách mạng thì giờ nơi nào có gia đình tôn giáo, gia đình nghèo khó chúng tôi vào ở, gần họ thì mới hiểu họ, giúp họ được. Bà con giáo dân đa số là tốt, chỉ một bộ phận nhỏ bị kẻ xấu kích động. Có khi nhiều hành vi nhỏ nhưng thể hiện rõ cái tâm của mình. Khi tôi vào gặp linh mục, dù tôi không theo tôn giáo nhưng tôi chủ động chắp tay trước ngực cúi chào tượng Chúa Giê-su. Có linh mục sau này đã nói, tôi tin anh vì anh kính trọng Chúa chính là anh đã tôn trọng tôi rồi.
PV: Hạnh phúc của người lính không chỉ là những tấm huân chương mà còn là sự tin cậy của nhân dân, đồng đội dành cho mình. Anh dường như đã có tất cả những thứ đó. Vậy bí quyết gì giúp anh thành công trên con đường binh nghiệp?
Trung tá Võ Trọng Hải: Khi mình luôn có tình yêu đối với công việc, với mọi người thì sẽ thành công. Làm sao có thể cảm hóa những đối tượng xấu nếu mình không thật sự thương yêu họ, coi họ như anh em mình. Hay với đồng bào tôn giáo, làm sao xóa tan mặc cảm, nghi ngại nếu không có được tình cảm chân thành. Tôi hiểu và xử lý được nhiều vụ việc liên quan đến đồng bào có đạo còn một phần vì những năm 90 của thế kỷ trước, thời còn trẻ, tôi có yêu một cô gái người công giáo. Yêu nhau thì phải hiểu nhau, tôi rất hiểu tập tục của đồng bào công giáo vì mình muốn đến với người ta thật lòng. Nhưng về sau, gia đình cô ấy không đồng ý gả cô ấy cho tôi. Rồi tất cả cũng qua, bởi đó là duyên số nhưng điều còn lại là hành trang quý giá cho tôi trong quá trình công tác sau này...
PV: Xin cảm ơn anh và chúc anh luôn thành công!
Minh Hà – Sơn Bằng thực hiện