Hai lần kiêm nhiệm Bộ trưởng Ngoại giao

Lần thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ngay khi Chính phủ lâm thời được thành lập (ngày 28-8-1945), đến ngày thành lập Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến (ngày 2-3-1946). Lần thứ hai, Người tiếp tục đảm nhiệm chức vụ này từ ngày 3-11-1946 đến tháng 3-1947. Trong bối cảnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, hoạt động ngoại giao dưới sự chèo lái trực tiếp của Người đã trở thành mẫu mực cho nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc, là dấu son chói lọi trong lịch sử ngoại giao cách mạng Việt Nam.

Suốt 24 năm giữ cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm, chỉ đạo sát sao đối với công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Người trực tiếp thực hiện nhiều hoạt động ngoại giao quan trọng, phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ, khẳng định vai trò của đối ngoại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Là người sáng lập nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại di sản đặc sắc-tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Đây là hệ thống các nguyên lý, nội dung, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao, trong đó nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” được Người đặc biệt nhấn mạnh: Giữ vững mục tiêu chiến lược-độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội-bằng sự linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn vận dụng sâu sắc nghệ thuật “ngũ tri” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng, biết biến) để thu phục lòng người bằng chính nghĩa, tình người, lẽ phải và đạo lý. Thực tiễn đã chứng minh tư tưởng ngoại giao của Người là nền tảng tư tưởng, là chìa khóa giúp Đảng ta vận dụng sáng tạo trong từng thời kỳ, tạo dựng thế và lực của đất nước trong thế giới đầy biến động.

Những dấu mốc đáng tự hào

Trong suốt 80 năm qua, ngành ngoại giao Việt Nam đã trải qua nhiều dấu mốc lịch sử đặc biệt, ghi dấu những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng. Ngay sau thành công của Cách mạng Tháng Tám, ngày 28-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đồng thời thành lập Bộ Ngoại giao. Dù mới ra đời, ngành ngoại giao đã nhanh chóng tạo dấu ấn mạnh mẽ: Hiệp định Sơ bộ (ngày 6-3-1946) và Tạm ước (ngày 14-9-1946) với Pháp là hai văn kiện pháp lý đầu tiên buộc Pháp công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, được đánh giá là những “nước cờ ngoại giao mẫu mực”.

leftcenterrightdel

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dự Đại hội lần thứ XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1961. Ảnh: TTXVN 

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ngành ngoại giao đã góp phần đưa đất nước thoát khỏi thế “đơn thương độc mã”, vận động được sự công nhận và chi viện của bạn bè quốc tế. Đỉnh cao là Hiệp định Geneve năm 1954, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, khẳng định vai trò ngoại giao trong phối hợp với mặt trận quân sự để tạo nên thắng lợi chiến lược.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngành ngoại giao tiếp tục đảm nhận vai trò đặc biệt, góp phần mở rộng mặt trận quốc tế ủng hộ Việt Nam. Các hoạt động ngoại giao đã tạo dựng phong trào phản chiến quy mô toàn cầu, đồng thời phát huy cao độ nghệ thuật “vừa đánh vừa đàm”. Với đỉnh cao là Hiệp định Paris năm 1973, ngoại giao đã góp phần quan trọng buộc Mỹ rút quân, lập lại hòa bình, tạo tiền đề cho thắng lợi mùa xuân năm 1975.

Sau thống nhất, đất nước phải đối mặt với vô vàn khó khăn, vừa khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa đấu tranh bảo vệ biên giới. Trong hoàn cảnh bị bao vây, cấm vận, ngành ngoại giao tiếp tục phát huy vai trò tiên phong. Thông qua các nỗ lực củng cố quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa và quốc tế tiến bộ, ngoại giao đã góp phần bảo vệ vững chắc biên giới phía Bắc và Tây Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, khẳng định vai trò quốc tế vì hòa bình và công lý của Việt Nam.

Bước vào thời kỳ đổi mới, ngành ngoại giao đã có bước chuyển mình chiến lược. Từ tư duy khép kín sang chủ động hội nhập, Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa với tất cả quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội. Từ chỗ chỉ có quan hệ kinh tế-thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ với hơn 230 đối tác, trở thành một trong 20 quốc gia có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, thu hút hơn 500 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Việt Nam cũng ngày càng khẳng định vị thế là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đất nước ta hiện tham gia hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực, có mặt trong tất cả cơ chế quan trọng như Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM)... Việt Nam đã đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách quốc tế như: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an, Ủy viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, thành viên các cơ chế điều hành của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO). Đặc biệt, Việt Nam đã tổ chức thành công các sự kiện quốc tế lớn như: Hội nghị cấp cao ASEAN, APEC, Thượng đỉnh Mỹ-Triều...

80 năm qua là hành trình ngoại giao Việt Nam sát cánh cùng dân tộc trong đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những bài học về kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và thời đại, giữa nội lực và ngoại lực, ngành ngoại giao luôn kiên định nguyên tắc độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, linh hoạt thích ứng với tình hình thế giới.

Những thành tựu của đối ngoại ngày nay là kết quả từ bản lĩnh chính trị vững vàng, tầm nhìn chiến lược đúng đắn và sự kế thừa di sản ngoại giao cách mạng. Trên chặng đường mới, ngoại giao Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò tiên phong, xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, vì lợi ích quốc gia-dân tộc, vì một Việt Nam hùng cường, giàu mạnh, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

TRẦN ANH VŨ