QĐND - Tối 4-5-1886, “thảm kịch” Chi-ca-gô (Chicago), Mỹ, nổ ra, cảnh sát đã bắn thẳng vào đám đông người biểu tình, giết và làm bị thương hàng trăm người. Ba năm sau, tại Pa-ri (Paris), Pháp, dưới sự lãnh đạo của Phri-đrích Ăng-ghen (Friedrich Engels), Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản II đã quyết định lấy ngày 1-5 hằng năm làm ngày biểu dương lực lượng và đấu tranh chung của tầng lớp vô sản các nước, tức Ngày Quốc tế Lao động.

Mùa xuân năm 1886, phong trào đấu tranh ngày làm việc 8 tiếng đã phát triển mạnh mẽ. Ngày 1-5-1886, Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ, lúc này được 5 tuổi, kêu gọi đình công trên toàn quốc. 350.000 công nhân ở 11.562 cơ sở khắp nước Mỹ đã tham gia đình công. Tại Đi-troi (Detroit), 11.000 công nhân tham gia diễu hành trong suốt 8 tiếng. Tại Niu Y-oóc (New York), 25.000 người tạo thành một hàng đuốc khổng lồ, dọc theo đại lộ Brốt-uây (Broadway), dẫn đầu là 3.400 thành viên của Công đoàn những người thợ làm bánh mì. Tại Chi-ca-gô, đã có 40.000 người biểu tình. Tất cả các tuyến đường sắt tại Chi-ca-gô đều ngừng hoạt động và hầu hết các ngành công nghiệp đều ngưng trệ. Các cơ sở chăn nuôi bị đóng cửa.

Một “Ủy ban Công dân” gồm các chủ doanh nghiệp họp hằng ngày để bàn bạc chiến lược tại Chi-ca-gô. Lực lượng quân sự của bang được huy động, cảnh sát đã sẵn sàng.

Dưới sự lãnh đạo của An-bớt Pa-xơn (Albert Parsons) và Au-gớt Spai (August Spies), hai nhà lãnh đạo theo khuynh hướng vô chính phủ của Hiệp hội Những người lao động quốc tế, Liên đoàn Lao động Trung ương, gồm 22 tổ chức công đoàn khác nhau, đã thông qua một nghị quyết quan trọng vào mùa thu năm 1885: “Hãy quyết tâm! Chúng tôi kêu gọi tầng lớp lao động hãy tự trang bị vũ khí để có thể đấu tranh chống lại những kẻ bóc lột, một khi thảo luận không đưa ra được giải pháp. Bạo lực và còn hơn thế, hãy quyết tâm, dù chúng ta mong đợi rất ít từ việc đưa ra yêu cầu về ngày làm 8 tiếng, nhưng chúng ta cam kết một cách chắc chắn rằng, chúng ra sẽ nỗ lực hết sức nhằm giúp đỡ những người anh em đang chịu nhiều lao khổ trong cuộc đấu tranh giai cấp này chừng nào những người anh em đó vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột… Khẩu hiệu đấu tranh của chúng ta là: Tiêu diệt hết kẻ thù của nhân loại!”.

Vào ngày 3-5-1886, một loạt các sự kiện diễn ra đã đặt Pa-xơn và Spai vào đúng vị trí mà tờ Chi-ca-gô Mail đã gợi ý: “Cần phải để mắt tới họ. Nếu có điều gì xảy ra thì phải xử họ để làm gương”. Ngày hôm đó, ngay tại điểm đối diện khu xưởng máy giặt Mác Co-mích (McCormick), những người đình công và người ủng hộ gây đụng độ, ngăn cản người đi làm. Cảnh sát nổ súng vào đám đông biểu tình và 4 người chết. Spai nổi giận, đến nhà in A-bê-tơ Xây-tung (Arbeiter-Xeitung) và in một thông tư bằng cả tiếng Anh và tiếng Đức: “Hãy trả thù! Hỡi anh em công nhân, hãy cầm lấy vũ khí!... Trong suốt nhiều năm, anh em đã phải chịu đựng nhục nhã tồi tệ nhất… Anh em đã phải làm việc quần quật đến chết… Anh em đã phải hy sinh con cái mình cho các chủ nhà máy. Anh em đã phải sống như những nô lệ khốn khổ và nhẫn nhục trong suốt bao nhiêu năm. Tại sao? Để đáp ứng lòng tham vô độ, để làm đầy thêm két của những gã chủ trộm cắp. Và giờ đây, khi anh em yêu cầu chúng giảm bớt gánh nặng cho anh em, chúng lập tức đưa lũ chó săn đến và bắn giết anh em… Anh em hãy cầm lấy vũ khí!”.

Tranh minh họa sự kiện Hay-ma-kít. Ảnh: The Nation

Một cuộc mít tinh được tổ chức tại Quảng trường Hay-ma-kít (Haymarket) vào tối 4-5, với sự tham dự của khoảng 3.000 người. Cuộc mít tinh diễn ra yên tĩnh. Khi thời gian đã muộn và trời sắp đổ mưa, đám đông rút lại chỉ còn vài trăm người. Một đội gồm 180 cảnh sát xuất hiện, tiến đến bục diễn giả và yêu cầu đám đông giải tán. Diễn giả nói rằng cuộc mít tinh chấm dứt. Bỗng nhiên, một quả bom nổ tung giữa đoàn cảnh sát. 60 cảnh sát bị thương. 7 người trong số này sau đó đã chết. Cảnh sát cũng nổ súng vào đám đông. Một số người chết và khoảng 200 người bị thương.

Do không có chứng cứ thủ phạm ném bom, cảnh sát đã bắt giữ 8 lãnh đạo chủ trương vô chính phủ tại Chi-ca-gô. Chứng cứ chống lại 8 người chủ trương vô chính phủ chính là tư tưởng của họ, tài liệu về họ, tuy trong số họ chỉ duy nhất Phi-en-đen (Fielden) là có mặt tại Hay-ma-kít. Ông lại đang phát biểu lúc bom nổ. Tòa án kết tội xử tử họ. Đơn xin ân xá của họ bị bác.

Vụ việc này đã khuấy động sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Các cuộc mít tinh đã diễn ra tại Pháp, Hà Lan, Nga, I-ta-li-a, Tây Ban Nha… Tại Luân Đôn (London), Anh, một cuộc mít tinh phản đối đã được Gioóc-giơ Bơ-nát Sâu (George Bernard Shaw), Uy-li-am Mo-rít (William Morris), Pi-tơ Krô-pót-kin (Peter Kropotkin) và những người khác bảo trợ. Sâu đã phản bác 8 thành viên thuộc Tòa án Tối cao I-li-noi, theo cách riêng của ông: “Nếu như thế giới này cần mất đi 8 người thì có lẽ tốt nhất là hy sinh 8 vị quan tòa của Tòa án Tối cao I-li-noi”.

Một năm sau vụ xử án, 4 trong số 8 người chủ trương vô chính phủ bị kết án là An-bớt Pa-xơn (thợ in), Au-gớt Spai (thợ bọc thảm), A-đôn-phơ Ê-xơ (Adolph Eischer) và Gioóc-giơ An-ghen (George Angel) bị treo cổ. Lu-ít Linh (Louis Lingg), một thợ mộc mới 21 tuổi, đã tự nổ tung thân mình trong xà lim bằng một ống thuốc nổ giấu trong miệng. 3 người còn lại vẫn tiếp tục ngồi tù.

Vụ xử án đã kích động người dân khắp nước Mỹ. Một đám tang diễu hành thu hút 25.000 người tham gia tại Chi-ca-gô. Một số bằng chứng cho thấy, một người tên là Ru-đôn-phơ Xơ-nau-ben (Rudolph Schnaubelt), vốn vẫn được cho là người của chủ nghĩa vô chính phủ, trên thực tế lại là một tay sai của cảnh sát, một tay sai phụ trách việc gây lộn xộn, được thuê ném bom để cảnh sát lấy cớ bắt giữ hàng trăm người, cũng như tiêu diệt bộ máy lãnh đạo của phong trào cách mạng tại Chi-ca-gô.

60.000 người đã ký tên kiến nghị gửi Thống đốc mới của I-li-noi là Giôn Pi-tơ An-ghen (John Peter Algeld). Ông này sau đó đã cho điều tra lại sự việc, thông báo công khai về chuyện đã xảy ra và trả tự do cho 3 người tù còn lại. Hết năm này sang năm khác, trên khắp nước Mỹ, người ta lại tổ chức các cuộc mít tinh để tưởng nhớ những người đã hy sinh tại Hay-ma-kít. Không biết bao nhiêu người đã giác ngộ cách mạng, như Em-ma Gôn-man (Emma Goldman) và A-lếch-xan-đơ Bếch-man (Alexander Berkman), đã trưởng thành từ vụ Hay-ma-kít. Thậm chí, đến năm 1968, tinh thần sự kiện Hay-ma-kít vẫn sống. Năm đó, một nhóm thanh niên cấp tiến đã làm nổ tung một tượng đài được dựng lên để tưởng nhớ những viên cảnh sát chết trong vụ nổ bom. Vụ xử 8 nhà lãnh đạo của phong trào phản chiến thời đó luôn được nhắc trên báo chí, trong các cuộc mít tinh và trong văn học như một ký ức khó quên.

Những gì diễn ra từ sự kiện Hay-ma-kít vẫn không thể đè bẹp phong trào lao động. Năm 1886 được những người đương thời miêu tả là “năm của những cuộc nổi dậy lớn nhất của các tầng lớp lao động”. Từ năm 1881 đến năm 1885, mỗi năm có chừng 500 cuộc đình công với sự tham gia của khoảng 150.000 công nhân. Năm 1886 có 1.400 cuộc đình công, với khoảng 500.000 công nhân tham gia. Trong cuốn “History of the Labor Movement in United States” (tạm dịch: Lịch sử Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ), Giôn Com-men (John Commens) phát hiện: “… những dấu hiệu một phong trào to lớn của tầng lớp lao động phổ thông cuối cùng cũng trở thành một cuộc nổi loạn… Phong trào mang đầy đủ dáng dấp của một cuộc đấu tranh xã hội. Sự căm thù một cách cuồng nộ của những người lao động đối với chủ nghĩa tư bản đã được thể hiện trong các cuộc đình công quan trọng… Cảm giác cực kỳ cay đắng đối với chủ nghĩa tư bản thể hiện trong tất cả hành động của nhóm Hiệp sĩ Lao động và ở bất cứ nơi nào những người lãnh đạo phong trào chỉ muốn bó hẹp việc đấu tranh trong giới hạn nhất định, thì cuối cùng đều bị những người tham gia phá vỡ rào cản đó…”.

Sau sự kiện Hay-ma-kít, bạo lực và xung đột giai cấp vẫn tiếp diễn. Trong cuộc đình công của những người bán vé xe điện diễn ra tại Đại lộ số 3 Niu Y-oóc, một tháng sau vụ Hay-ma-kít, cảnh sát đã tấn công đám đông hàng nghìn người, sử dụng gậy gộc hết sức tàn bạo. Kết cục, cuối năm 1886, không khí căm phẫn dồn vào chiến dịch vận động tranh cử thị trưởng Niu Y-oóc. Công đoàn thương mại thành lập Đảng Lao động Độc lập và bổ nhiệm thị trưởng Hen-ri Gioóc-giơ (Henry George), một nhà kinh tế cấp tiến, mà tác phẩm “Progress and Poverty” (tạm dịch: Sự tiến bộ và cảnh bần cùng) của ông đã được hàng nghìn công nhân đón nhận. Bản cương lĩnh của Gioóc-giơ phần nào miêu tả được tình trạng làm việc của công nhân tại Niu Y-oóc vào những năm 1880. Cương lĩnh đặt ra yêu cầu: “Các vị đại thẩm phải được chọn từ đại diện tầng lớp thấp và tầng lớp cao. Các tầng lớp vẫn chi phối đại thẩm đoàn. Cảnh sát không được can thiệp vào các cuộc mít tinh mang tính hòa bình. Cần được tăng cường kiểm tra tình trạng vệ sinh của các tòa nhà. Các công việc công cộng không áp dụng hình thức lao động hợp đồng. Phụ nữ phải được trả lương như nam giới đối với cùng loại công việc. Xe chở khách công cộng phải do chính quyền thành phố sở hữu”. 

PHẠM LƯƠNG