Trong gần một thập niên qua, có một tác gia Trung Quốc đã được giới thiệu một cách hệ thống ở Việt Nam với nhiều tác phẩm gây chấn động văn đàn; đó là nhà văn Mạc Ngôn với các tác phẩm như “Báu vật của đời”, “Đàn hương hình”, “Rừng xanh lá đỏ”, “Cây tỏi nổi giận”, “Tửu quốc”, “41 truyện tầm phào”... Người kiên trì làm công việc dịch thuật để đưa các tác phẩm đó đến với bạn đọc Việt Nam là dịch giả Trần Đình Hiến. Ông cũng còn là người dịch nhiều tác phẩm đương đại nổi tiếng khác của văn học Trung Quốc sang tiếng Việt như “Cây không gió” (Lý Nhuệ), “Totem sói” (Khương Nhung)... Ông đã có cuộc trò chuyện với QĐND Cuối tuần:
 |
Dịch giả Trần Đình Hiến |
Tôi đã gặp may!
- Thưa dịch giả Trần Đình Hiến, vì sao ông lại chọn các tác phẩm của Mạc Ngôn để giới thiệu với bạn đọc Việt Nam chứ không phải là một ai khác?
Trần Đình Hiến: Để trả lời câu hỏi này, cần phải hiểu một số đặc điểm trong văn hóa-và tất nhiên cả văn học-Trung Hoa. Văn hóa Trung Hoa có những quy luật bất thành văn nhưng đã tồn tại hàng ngàn năm, chẳng hạn như đã là người anh hùng thì không được ham sắc dục, không gần gũi phụ nữ, thậm chí coi sắc đẹp như kẻ thù. Những quy luật đó phản ánh rất đậm nét trong nhiều tác phẩm văn học Trung Hoa. Như trong truyện Tam Quốc diễn nghĩa, rất nhiều nhân vật đã được khuôn mẫu theo cái quy luật này. Lã Bố vũ dũng là thế, dính đến Điêu Thuyền là đi đứt! Chu Du có giỏi đến mấy nhưng có Tiểu Kiều là chết yểu. Còn Triệu Tử Long là anh hùng thứ thiệt, không bao giờ nhắc đến chuyện nhi nữ thường tình nên cuối cùng đã chết già trên giường! Hay một người được coi là “trung thần hiếu tử” là người phải biết khóc! Không biết anh ta khóc thật hay khóc vờ, chỉ cần biết khóc là anh ta được coi như một hình mẫu đáng để noi theo rồi. Vì thế nên ông Lưu Bị trong truyện Tam Quốc mới khóc ở mọi lúc mọi nơi... Những nhân vật như thế không còn giới hạn ở những con người cụ thể nữa mà đã trở thành những hình mẫu, những “mã văn hóa” đặc biệt có thể giúp tìm hiểu phần nào văn hóa Trung Hoa.
Tôi là người có thời gian dài làm công tác ngoại giao nhưng đã từ lâu muốn tìm hiểu văn hóa Trung Hoa qua cách tiếp cận văn học. Vấn đề nằm ở chỗ là do một số đặc điểm văn hóa Trung Hoa như đã nêu ở trên nên việc tìm hiểu văn hóa Trung Hoa rất khó khăn bởi rất khó nhận biết những “mã văn hóa” đặc trưng. Tôi đã tìm đọc rất nhiều tác giả Trung Hoa và đến khi “gặp” Mạc Ngôn thì tôi hiểu rằng, đó chính là tác giả mà tôi có thể thông qua đó để hiểu sâu về văn hóa Trung Hoa. Tôi đã gặp may!
- Ngoài ý nghĩa như một nhà văn phản ánh đặc trưng “mã văn hóa” Trung Hoa, khi tiếp xúc với những tác phẩm của Mạc Ngôn, còn có điều gì khác nữa quyến rũ ông?
Trần Đình Hiến: Cần phải hiểu rằng văn hóa Trung Hoa vốn bản thân nó đã hết sức phức tạp và khó hiểu! Nói nôm na theo kiểu người Việt Nam mình là “ngó vậy mà không phải vậy!”. Như đạo Khổng chẳng hạn. Có rất nhiều sách, nhiều người thuyết giảng về đạo Khổng, nhưng thực chất nó là cái gì thì chưa hẳn ai đã hiểu rõ. Lỗ Tấn đã từng nói về điều này khi ông cho rằng người Trung Hoa nhiều khi sử dụng đạo Khổng như hòn đá gõ cửa nhà người khác, sau khi đạt mục đích vào được nhà rồi thì bỏ hòn đá bên cạnh cửa để đi vào! Vậy nên tôi quyết định rằng để có thể hiểu được một cách kỹ càng nhất đến hết mức có thể thì chỉ có qua con đường văn học thôi. Vì qua chữ viết thì người ta không giấu được điều gì. Mạc Ngôn cũng vậy. Tôi bắt gặp trong tác phẩm của ông cái khía cạnh nhân bản, lấy số phận con người làm trung tâm. Mà ngôn ngữ, giọng điệu ông sử dụng lại hết sức đương đại, không bị những cái bóng kỳ vĩ của văn học cổ Trung Hoa trùm lấp. Nói một cách khác, khi viết văn, Mạc Ngôn cương quyết đoạn tuyệt với quá khứ và điều đó làm nên hơi thở thời đại trong văn ông.
Văn học trở về bản thể không bao giờ cũ
- Nhưng ông cũng biết rằng trong văn học Trung Quốc thời gian qua có rất nhiều tác giả nổi lên với giọng điệu cách tân, hiện đại...
Trần Đình Hiến: Đúng là thời gian gần đây có nhiều tác phẩm của nhiều tác giả thu hút sự
Trần Đình Hiến: Cần phải hiểu rằng văn hóa Trung Hoa vốn bản thân nó đã hết sức phức tạp và khó hiểu! Nói nôm na theo kiểu người Việt Nam mình là “ngó vậy mà không phải vậy!”. Như đạo Khổng chẳng hạn. Có rất nhiều sách, nhiều người thuyết giảng về đạo Khổng, nhưng thực chất nó là cái gì thì chưa hẳn ai đã hiểu rõ. Lỗ Tấn đã từng nói về điều này khi ông cho rằng người Trung Hoa nhiều khi sử dụng đạo Khổng như hòn đá gõ cửa nhà người khác, sau khi đạt mục đích vào được nhà rồi thì bỏ hòn đá bên cạnh cửa để đi vào! Vậy nên tôi quyết định rằng để có thể hiểu được một cách kỹ càng nhất đến hết mức có thể thì chỉ có qua con đường văn học thôi. Vì qua chữ viết thì người ta không giấu được điều gì. Mạc Ngôn cũng vậy. Tôi bắt gặp trong tác phẩm của ông cái khía cạnh nhân bản, lấy số phận con người làm trung tâm. Mà ngôn ngữ, giọng điệu ông sử dụng lại hết sức đương đại, không bị những cái bóng kỳ vĩ của văn học cổ Trung Hoa trùm lấp. Nói một cách khác, khi viết văn, Mạc Ngôn cương quyết đoạn tuyệt với quá khứ và điều đó làm nên hơi thở thời đại trong văn ông. |
chú ý của đông đảo dư luận. Nhiều tác phẩm trong số đó viết về những mất mát, đau xót, những số phận bi thảm trong thời kỳ cách mạng văn hóa ở Trung Quốc. Đó chính là cái gọi là “
văn học vết thương”. Những tác phẩm thuộc dòng văn học này thu hút chú ý bởi bản thân sự nhạy cảm của vấn đề nó nêu ra, nhưng một khi đã qua cái thời kỳ đầu thì người ta sẽ nhanh chóng cảm thấy bị nhàm và không còn gây được chú ý nữa. Còn dòng văn học mà Mạc Ngôn theo đuổi, theo tôi là dòng “
văn học tầm căn”, trở về với bản thể của chính con người để nêu lên những vấn đề lớn lao của thời đại. Nó không bao giờ cũ.
- Xét về phương diện này, khi đọc “Báu vật của đời” (nguyên văn tiếng Trung là “Phong nhũ phì đồn-Vú to mông nở”-NV), tôi có cảm giác như Mạc Ngôn khá gần với Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két. Nếu Mác-két có một làng Ma-côn-đô huyền thoại trong “Trăm năm cô đơn” thì Mạc Ngôn cũng có một làng Cao Mật ở vùng Đông Bắc, cứ trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của ông...
Trần Đình Hiến: Theo ý tôi thì Mạc Ngôn gần với Uy-li-am Phôn-cơ-nơ (một tiểu thuyết gia người Mỹ từng đoạt giải Nô-ben văn chương năm 1949-NV) hơn là Mác-két. Anh biết đấy, trong nhiều tác phẩm của Phôn-cơ-nơ cũng luôn hiện diện một địa danh là hạt Yoknapatawpha, một địa danh giả tưởng mà ông lấy hình mẫu từ hạt Lafayette ở vùng Mississippi quê hương ông. Vùng Cao Mật đông bắc của Mạc Ngôn cũng thế. Các nhà văn như Mác-két, Phô-cơ-nơ và phần nào cả Mạc Ngôn là những người có khả năng biến các khái niệm địa lý thành khái niệm văn học và điều đó không chỉ mang ý nghĩa với từng tác phẩm của các ông mà còn là những đóng góp to lớn về mặt lý thuyết văn học. Tại một hội thảo văn học mới đây tổ chức ở Giang Tô, các nhà văn Trung Quốc đã nhất trí cho rằng, mỗi nhà văn đều có một mảnh “sân sau” của mình để tác phẩm tựa vào đó mà hình thành. Thế nhưng có một mảnh “sân sau” là một chuyện, còn từ đó có sáng tạo ra tác phẩm được hay không lại là chuyện khác. Nếu không biết cách nâng tầm, không hiện đại hóa, không có mối liên hệ bác ái với nhân quần thì sẽ không thể có tác phẩm lớn được.
- Nhân nói đến mối liên hệ với nhân quần, có một vấn đề khiến nhiều nhà văn trẻ Việt Nam hiện nay cũng đang băn khoăn, đó là chuyện thâm nhập thực tế. Ý kiến của ông về chuyện này như thế nào?
Trần Đình Hiến: Đó mới chỉ là một phần trong việc tạo nên tác phẩm mà thôi. Qua Mạc Ngôn, tôi thấy rằng điều quan trọng là anh phải sống đời sống của các nhân vật trong đó, thì dù có ở bối cảnh nào anh vẫn chính là anh thôi. Ngay những tác phẩm của Mạc Ngôn khi đã chuyển về bối cảnh đô thị thì những con người trong đó vẫn là người nông dân Cao Mật. Mạc Ngôn có kể rằng khi ông viết cuốn “Cây tỏi nổi giận” (nguyên văn trong tiếng Trung là “Bài ca ngồng tỏi Thiên Đường”-NV), ông có cảm tưởng một người ở vùng Cao Mật quê ông cứ đứng sau lưng và giật giật áo ông nói: “Cho chú vào trong sách của cháu!”.
Dịch là ngẫm ngợi...
- Là người dịch nhiều tác phẩm của Mạc Ngôn, ông có cho rằng liệu có những điều kiện nhất định nào để cho phép xuất hiện những nhà văn lớn, tài năng hay không?
Trần Đình Hiến: Cũng khó nói về một điều kiện nhất định nào, nhưng qua Mạc Ngôn, tôi thấy có một điều tối quan trọng để làm nên một nhà văn lớn, đó là tinh thần tự học rất cao. Ông cũng giống với một nhà văn trùng họ ở Việt Nam là ông Mạc Can, có tới 99% nhờ tự học mà thành nhà văn. Mạc Ngôn học hành dở dang, từng phải đi chăn dê, đói quá đến mức phải ăn cả bánh xà phòng. Trong khi đi chăn dê, không có giấy bút để viết lại, ông nhẩm thuộc lòng cả cuốn tiểu thuyết trong bụng (gọi là phúc cảo), đến lúc có điều kiện chỉ cần ngồi viết ra thôi!
- Ông là dịch giả kiên trì đi theo một tác giả (là Mạc Ngôn), giới thiệu nhà văn này với độc giả Việt Nam rồi sau đó dịch một số tác giả khác như Lý Nhuệ “Cây không gió”, Khương Nhung “Totem sói”... Theo ông trong việc giới thiệu một cách có hệ thống tác phẩm của một nhà văn, dịch giả đóng vai trò như thế nào?
Trần Đình Hiến: Chắc chắn điều đó sẽ làm cho các tác phẩm có được tính nhất quán và toát lên được cái thần của tác giả hơn. Việc dịch văn học thực chất nằm trong công cuộc giao lưu giữa hai nền văn hóa. Khi dịch Mạc Ngôn, tôi không chỉ đọc ông mà còn đọc lại những tác phẩm kinh điển như “Tam Quốc diễn nghĩa”, “Thủy Hử”, để thấy rằng Mạc Ngôn vừa đoạn tuyệt với những gì xưa cũ, nhưng cũng là sự tiếp nối truyền thống của văn học Trung Hoa. Dịch một tác giả là ngẫm ngợi về những điều mà tác giả đó muốn nói. Không nhất thiết dịch giả phải gặp nhà văn ngoài đời (đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp Mạc Ngôn và cũng không có ý định tìm gặp) mà chủ yếu là phải gặp trên tác phẩm. Vấn đề là nội hàm văn hóa của tác phẩm có đủ sức cuốn hút mình không. Dịch Mạc Ngôn đến cuốn thứ 6, thấy các tác phẩm sau của ông không vượt qua được những tác phẩm trước đó như “Báu vật của đời”, “Đàn hương hình” nên tôi rẽ sang dịch Lý Nhuệ, Khương Nhung...
Xin cảm ơn ông!
YÊN BA (Thực hiện)