Nhà thờ họ Chế được xây dựng vào năm 1800, đã qua nhiều lần trùng tu, trong đó lần gần đây nhất là vào năm 1996. Về quy mô, nhà thờ không lớn lắm nhưng lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị lớn về văn hóa và lịch sử. Riêng di sản Hán Nôm ở ngôi nhà thờ này nói lên rất nhiều điều, đặc biệt là nói về công sức của các thế hệ họ Chế đóng góp cho vùng đất này.
Có thể chia di sản Hán Nôm ở nhà thờ họ Chế thành 4 loại: Bài vị, câu đối, sắc phong và văn bia. Ông Trần Mạnh Cường (Thư viện tỉnh Nghệ An) đã thực hiện việc phiên âm, dịch nghĩa một số di sản Hán Nôm ở nhà thờ họ Chế tại Cửa Lò. Qua tài liệu này, đối chiếu với nhiều nguồn tài liệu khác nhau, chúng ta có thể hiểu rằng, vào giữa thế kỷ 15, dòng họ Chế đã đến vùng đất này lập nghiệp. Có lẽ họ là một nhóm người chứ không chỉ một người. Ngoài Chế Ngân, ít ra còn có Chế Hiệp, Chế Lâu, Chế Đá nữa. Họ là những thủ lĩnh ở quê quán của mình. Khi đến đây, họ làm Thủ chỉ “Hội đồng kỳ hào”, nghĩa là những người đứng đầu của những làng mới lập. Trải qua hàng trăm năm, các thế hệ họ Chế đã xây được nhà thờ để lưu giữ nguồn gốc tổ tiên và những đóng góp của mình. Nhưng nếu chỉ căn cứ vào bài vị và các sắc phong (chủ yếu do các vua triều Nguyễn phong) thì nhiều người cho rằng, đây là nhà thờ họ Nguyễn chứ đâu phải nhà thờ họ Chế. Cái bài vị đầu tiên nói về một người sống vào thời Lê, đầu tiên làm cai hợp kiêm xã trưởng, sau thăng lên hương lão thủ chỉ, mang họ Nguyễn. Hay người đỗ Thám hoa, giỏi nghề thuốc, được triều đình bổ làm quan, cai quản 1.400 thợ xây dựng các công trình ở Huế, được vua Tự Đức ban ba sắc phong đều ghi là “Nguyễn Đình Thông”.
Bia đá trong khuôn viên nhà thờ.
Tuy nhiên, dưới thời phong kiến, việc thay đổi họ không có gì lạ. Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi cũng từng được đổi sang họ Lê. Vì vậy, việc đổi qua, đổi lại họ Chế, họ Nguyễn cũng là bình thường. Ngay trong nhà thờ này cũng đã có bằng chứng nói rõ đây là nhà thờ họ Chế, thờ phụng tổ tiên họ Chế lập nghiệp ở Nghệ An. Ở mặt sau của bia đá, phía bên trên, trong phần (xin tạm dịch ra tiếng Việt) “Bài ký về thế phả ở nhà thờ họ Nguyễn” nói rõ ý: “Dòng họ ta trước kia là họ Chế, sau này đổi sang họ Nguyễn”. Điều này còn được khẳng định bằng đôi câu đối ở cột tiền đường: “Thu giang miếu vũ tân chi phái/ Cố quốc hồng đồ cựu bản nguyên”, tạm dịch: “Nhà thờ chi phái mới ở Thu Giang/Nguồn cội cơ đồ lớn ở cố quốc”. Do vậy, không có gì phải nghi ngờ đây là nhà thờ họ Chế.
Tuy nhiên, di sản Hán Nôm ở đây có ý nghĩa sâu rộng hơn, chúng cần được nghiên cứu, chú giải rõ ràng hơn (đặc biệt là đối với các sắc phong và văn bia) để mọi người hiểu thêm về lịch sử.
Hiện nay, trên khắp nước Việt Nam, hầu như dòng họ nào cũng quan tâm đến nguồn gốc tổ tiên của mình. Tuy nhiên, điều mà nhiều người băn khoăn là rất có thể các thế hệ sau này sẽ tìm cách trùng tu, mở rộng nhà thờ (điều mà nhiều dòng họ đã từng làm). Nếu điều này xảy ra, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tính nguyên bản, nguyên vẹn của di tích.
Còn một điều quan trọng hơn là nghiên cứu kỹ lưỡng những giá trị di sản Hán Nôm ở nhà thờ này. Đây là việc có ý nghĩa nhưng để thực hiện là không dễ. Cái khó ở đây là các chuyên gia Hán Nôm của chúng ta ngày càng ít. Họ cũng không có nhiệm vụ phải nghiên cứu tỉ mỉ những nội dung được lưu giữ ở các nhà thờ dòng họ. Vậy cách tốt nhất, thực tế nhất là con cháu của dòng họ Chế nên đứng ra lo việc này là chính.
Cách làm cũng không quá phức tạp. Trước hết, cần có sự thẩm định của cơ quan chức năng. Muốn vậy, đại diện dòng họ làm công văn báo cáo với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nghệ An, nhờ họ cử chuyên gia thẩm định lại một cách kỹ càng. Sau đó, nhờ họ tư vấn những việc cần phải làm tiếp theo.
Song song với việc báo cáo và nhờ sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng, dòng họ nên cử 2-3 người học Hán Nôm (có thể học bài bản ở các cơ sở đào tạo, hoặc tự học) để nghiên cứu và khai thác những giá trị của 4 loại di sản có trong nhà thờ. Với vị thế, với truyền thống lịch sử của họ Chế ở Nghệ An, điều này là rất nên làm. Rất nhiều người (dù không phải là con cháu họ Chế) muốn biết những giá trị di sản Hán Nôm ở nhà thờ này.
Bài và ảnh: NGUYÊN HỒ