Nó cũng khiến Nguyễn Công Trứ phải viết cho người ta hát Cửa đình: "Chẳng thơm cũng thể hoa lài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An".
Khiến sau này, Lưu Quang Vũ viết về Hà Nội: “Cái thành phố lam lũ và chải chuốt”.
Đêm tháng Chạp năm 1946-“Cái đêm rút qua gầm cầu”-được Chính Hữu “thơ hóa”: "Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa/ Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng".
Rất hào hùng mà nét hào hoa đã lấp ló. Nhưng cái cảm hứng/cảm khái hào hoa của Trung đoàn Thủ Đô nói riêng và của Hà Nội nói chung là đây: "Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng/ Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm/ Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa".
Người Hà Nội thích thế, là thế! Đánh nhau, đất trời mù mịt, “xác oan cừu ngập lối chân đi” thì cũng vẫn phải đẹp, phải lãng tử/lãng mạn-hết đạn thì phang ghi-ta vào đầu giặc như tại Nhà hát Lớn năm ấy vậy! Cứ phải là “súng chuốt gươm lau, mắt ngời sáng quắc”, không đánh nhau xấu! Cứ phải là “Gạch ngói xưa mừng đón gót lưu ly”!
Năm 1949, Quang Dũng viết trong “Tây tiến” lộng lẫy của ông: "Tây tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm/ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm/ Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Thế đấy! Trí thức, sinh viên, học sinh Hà Nội, sống chết đều cứ phải đẹp! Cứ phải có “xác oan cừu”, “gót lưu ly”, “oai hùm”, “gửi mộng”, “dáng kiều thơm”, “mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “áo bào”, “khúc độc hành”!
Hào hoa trộn hào hùng hay hào hùng trộn hào hoa-cái phong cách đã hóa thành cốt cách Hà Nội-là thế!
Thế nên, ở chiến khu chống Pháp, Việt Phương đã phải viết: "Đêm sâu vời vợi chiến khu/ Lưỡi lửa chập chờn đứt nối/ Liếm những cơn mơ Tháp Rùa/ Rừng bỗng thơm hương Hà Nội".
Nguyễn Đình Thi viết: "Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác hơi may/Người ra đi, đầu không ngoảnh lại/bSau lưng, thềm nắng lá rơi đầy". Và chính ông đã viết trong những ngày chống Mỹ: "Thành phố thân yêu, thành phố thép/... Anh ôm chặt em và ôm cả khẩu súng trường bên vai em".
    |
 |
Hòa sắc cầu Nhật Tân, Hà Nội. Ảnh: NSNA PHẠM TRƯỜNG THI
|
Thi Sảnh thì viết: "Những tiến sĩ vẫn nối tiếp ra đi từ Văn Miếu/ Cưỡi ngựa, cưỡi voi, cầm súng cầm gươm/... Đất nước này, có thời nào văn nhân vắng mặt".
Và, Thi Hoàng viết: "Có nghìn năm trong khoảng không động đậy/ Em hay chuông đền Ngọc Sơn vừa đội nón đi qua".
Nhưng trong thơ Việt hiện đại, bài thơ sau đây của Đỗ Trung Lai được coi là đã gói cả cái cốt cách hào hùng/hào hoa của ngàn năm Thăng Long-Hà Nội:
THĂNG LONG
Có một Thăng Long huyền thoại
Rồng lên từ phía sông Hồng
Có một Thăng Long áo mỏng
Gió đùa quanh tấm lưng ong
Có một Thăng Long Sát Thát
Tinh kỳ rợp Đông Bộ Đầu
Có một Thăng Long thơm ngát
Mặt hoa nồng nàn đêm sâu
Có một Thăng Long Nguyễn Trãi
Chong đèn viết sách Bình Ngô
Có một Thăng Long mềm mại
Tựa vai ta, bước bên hồ
Có một Thăng Long Lê Lợi
Giặc tan, trả lại gươm thần
Có một Thăng Long mắt sẫm
Môi cười như đóa hoa xuân
Có một Thăng Long Nguyễn Huệ
Ngựa phi trong sắc hoa đào
Có một Thăng Long e lệ
Mắt nào góc phố tìm nhau
Có một Thăng Long xa lắm
“Lối xưa, xe ngựa, hồn thu...”
Có một Thăng Long đang thở
Bên ta, từng phút từng giờ
Có một Thăng Long Hoàng Diệu
Treo mình tử chiến giữ thành
Có một Thăng Long chung thủy
Chờ nhau mấy cuộc chiến tranh
Có một Thăng Long "Cờ đỏ
Bay quanh tóc bạc Bác Hồ"
Có một Thăng Long bé nhỏ
Không bao giờ thôi mộng mơ
Có một Thăng Long bốc cháy
Đưa tiễn Trung đoàn Thủ Đô
Có một Thăng Long hờn dỗi
Bên thềm, mắt ướt như mưa
Có một Thăng Long mũ lưới
Bộ đội vào năm cửa ô
Có một Thăng Long dẫn cưới
Bằng cả một đoàn xích lô
Có một Thăng Long lẫm liệt
“Pháo đài bay” rụng mặt hồ
Có một Thăng Long răng trắng
Cắn vào quả sấu đầu thu
Có một Thăng Long bỏ ngỏ
Giặc vào không còn đường ra
Có một Thăng Long gót đỏ
Tóc dài bên liễu thiết tha
Có một Thăng Long thương nhớ
Người đi mở cõi mơ về
Có một Thăng Long thon thả
Khép hờ vạt áo ngoài kia.
* *
*
Chả thế mà, "tướng quân" Huỳnh Văn Nghệ đã phải viết: "Ai về Bắc ta theo với/ Về với non sông giống Lạc Hồng/ Từ thuở mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long!".
* *
*
Sở dĩ như vậy là vì Thăng Long-Hà Nội đã có hơn một nghìn năm lịch sử, một nghìn năm văn hóa/văn hiến làm hành trang.
Từ thời Trần, Phạm Sư Mạnh đã phải sửng sốt với văn vật Thăng Long và kêu lên: "Đến đây ta muốn vung bút quý/ Lấy cả sông xuân làm nghiên thiêng!".
Ngay trong thời Lê mạt, Bà Huyện Thanh Quan vẫn thấy: "Mấy dò sen rớt hơi hương ngự/ Năm thức mây phong nếp áo chầu".
Nên, cuối thời Lê đầu thời Nguyễn, Nguyễn Huy Lượng viết: "Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc/ Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa.../ Vẻ hoa lẫn dấu cờ năm thức/ Mặt nước in bóng giáo ba ngù.../ Lễ nhạc ấy nghìn thu ít thấy/ Phong cảnh này mấy thuở nào so".
Còn, Nguyễn Văn Siêu “phải” viết về sông Hồng: "Suốt dòng xa, lửa nghìn xóm lập lòe bên khói sóng/ Chật bến gần, buồm gấm tựa rừng lên đợi hải hành".
Và, Cao Bá Quát, bên sông Hồng, “phải” viết: "Ngó Bắc, núi cao liền châu thổ/ Nhìn Nam, trời lớn cuốn ngàn mây/ Rốn Rồng, thành quách vươn uy tráng/ Sóng tựa hoa đào vạn sắc bay".
* *
*
Từ thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn... xưa, Thăng Long-Hà Nội đã là như vậy thì ngày nay, vẫn như vậy!
Ôi! “Cái thành phố lam lũ và chải chuốt” đương thời của ta!
NGUYỄN DÃ NGHI