1. Văn học trung đại Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18, nửa đầu thế kỷ 19 không thể không nhắc tới hai nữ sĩ: Hồ Xuân Hương và Bà huyện Thanh Quan. Cả hai đều viết về Hà Nội nhưng bút pháp khác hẳn nhau. Hồ Xuân Hương được người đương thời tôn vinh là "Bà Chúa thơ Nôm" với phong cách đố tục giảng thanh đặc sắc, táo bạo, tinh nghịch mà vẫn sâu sắc. Một trong những bài thơ tiêu biểu Hồ Xuân Hương viết về Hà Nội là bài “Chùa Quán Sứ”-tác phẩm điển hình cho phong cách Hồ Xuân Hương với lối chơi chữ nói lái theo cụm ba từ, hình ảnh ẩn dụ lấp lửng nửa thanh nửa tục. Ngược lại với Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan viết về Hà Nội với cảm xúc hoài niệm, suy tư về cảnh đời dâu bể, những sự vật đổi thay của giang sơn, thể hiện nỗi xót xa, luyến tiếc về một thời vàng son đã qua trong "Thăng Long thành hoài cổ": "Tạo hóa gây chi cuộc hí trường/ Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương/ Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương...".

Nếu so sánh với các nhà thơ nam giới thời trung đại khi viết về Thăng Long, ta thấy Nguyễn Du gần với Bà huyện Thanh Quan nhiều hơn bởi những ngậm ngùi về lẽ đổi thay hưng phế: "Thiên niên cự thất thành quan đạo/ Nhất phiến tân thành một cố cung/ Tương thức mỹ nhân khan bão tử/ Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông" (Dịch nghĩa: Nhà xưa bỗng hóa đường này/ Cung xưa bỗng hóa thành xây lạ lùng/ Gái quen nay đã con bồng/ Bạn chơi nay đã nên ông cả rồi) (Thăng Long, bài 1).

2. Sang thế kỷ 20, trong giai đoạn thơ kháng chiến, Hà Nội cũng đi vào vô số thi phẩm danh tiếng. Nếu các nhà thơ nam giới như: Huỳnh Văn Nghệ, Chính Hữu, Quang Dũng viết nhiều câu thơ về Hà Nội với khí thế bốc lửa ngút trời, mạnh mẽ và đầy hào khí... thì các nữ sĩ lại có cách viết đầy mềm mại về Thủ đô. Xuân Quỳnh viết về Hà Nội trong những chuyến đi xa tạm biệt đầy lưu luyến: "Em xao xuyến trong lòng/ Nhớ về nơi ta ở/ Mùa thu vàng đường phố/ Lá bay đầy lối qua..." (Sân ga chiều em đi). Sau này, Hà Nội còn đi vào thơ Xuân Quỳnh trong tình yêu của con trai dành cho mẹ: "Con yêu mẹ bằng Hà Nội/ Để nhớ mẹ con tìm đi/ Từ phố này đến phố kia/ Con sẽ gặp ngay được mẹ" (Con yêu mẹ).

Nếu như Xuân Quỳnh sinh ra và lớn lên ở Hà Đông, rồi sau đó làm việc ở trung tâm Thủ đô thì Lâm Thị Mỹ Dạ là nhà thơ sinh ra và lớn lên ở Quảng Bình. Lần đầu ra Hà Nội, bà đã viết bài thơ lục bát “Đường ở Thủ đô” với những câu thơ trong trẻo đến ngơ ngác: "Lần đầu về với Thủ đô/ Đường giăng như nhện giăng tơ rập rình/ Tôi đi giữa phố đẹp xinh/ Như đêm đi đến bình minh... lạ lùng" (năm 1973).

leftcenterrightdel

 Vẻ đẹp của thiếu nữ Hà thành. Ảnh: HẢI BĂNG 

3. Từ sau năm 1975 đến nay, có thêm nhiều giọng thơ nữ viết về Hà Nội. Khi đất nước đã hòa bình, thống nhất, những cây bút có điều kiện đi sâu hơn vào những câu chuyện nội tâm, riêng tư của từng cá nhân. Nhiều bài thơ tình nồng cháy, tha thiết được viết ra gắn với Hà Nội: "Xa một tuần có lâu quá không anh/ Sao em thấy ngày cứ dài đến thế/ Đêm Hà Nội thơm nghẹn lòng hoa sữa/ Ngôi sao em ngân ngấn khóc chân trời" (Đêm Hà Nội, nhớ-Bùi Sim Sim). "Lá buồn rơi một chiều mưa/ Gió nghiêng nghiêng ướt đường thưa bóng người/ Mái hiên nào cũng chật rồi/ Mình em ngơ ngẩn bồi hồi tìm anh" (Chiều mưa-Hoàng Thị Minh Khanh).

Với những nữ sĩ vì một lý do gì đó phải xa Hà Nội, xa nơi mình sinh ra và lớn lên thì nỗi nhớ về Hà Nội bao giờ cũng cồn cào, da diết. Đặng Hà My trong tập thơ “Nhiên sơ” đã dành nhiều câu thơ về Hà Nội, nơi đầy ắp những kỷ niệm của chị, nơi có lời hẹn ước khôn nguôi: "Em chưa thể cùng anh về với biển/ Bởi nơi em chưa dịu sóng Tây Hồ/ Cát nơi ấy trùng khơi nơi ấy/ Em mang về vời vợi chiết vào thơ" (Nghiêng xuống Tây Hồ). Hà Nội trong thơ Đặng Hà My hiện lên từ những gì rất đỗi giản dị, thân thuộc nhưng lại khiến người đi xa phải cồn cào nhớ: "Vẫn chưa nhạt hương/ Một chiều hoa sữa/ Phố gọi vào đêm/ Từng ngọn gió lao xao/ Tí tách cà phê/ Nơi quán chiều Yên Phụ/ Em cũng mơ hồ/ Quên nhớ giữa nôn nao" (Cà phê chiều Yên Phụ).

Giống như Đặng Hà My, Hàm Anh cũng là người phụ nữ phải xa cách Hà Nội cả nửa vòng trái đất bởi công việc đặc thù của một nhân viên Bộ Ngoại giao. Nỗi nhớ của chị về Hà Nội không chỉ gắn với tình yêu đôi lứa mà còn gắn với những ký ức tuổi thơ, một miền không gian bình yên và sâu thẳm, luôn sẵn sàng mở rộng vòng tay chữa lành mọi vết thương cho những đứa con lưu lạc: "Em ngủ êm trên mưa/ Nhớ về anh Hà Nội/... Hà Nội nhớ, thơm bốn mùa hoa cỏ/ Cầu lỗi nhịp, chiều sông Hồng sang phố/ Mỗi góc xanh như một cú vấp lòng!" (Hà Nội mưa).

4. Những cây bút nữ thuộc thế hệ 8X lại có những cách cảm, cách nhìn riêng về Hà Nội. Vi Thùy Linh là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ đầu 8X đã có những câu thơ nặng lòng về sông Hồng, bày tỏ những lo lắng khi vẻ đẹp của Hà Nội bị mai một trong quá trình đô thị hóa: "Sông ngày một cạn, hẹp lại hai bờ/ Còn đâu hướng gió cho thuyền nên thơ/ Long Biên cầu già căng hai nhịp võng/ Cố gồng đường sáng cho người thờ ơ...". (Thương sông Hồng).

Gần đây, nhà thơ Lữ Mai (sinh năm 1988) vừa xuất bản tập thơ mang tên “Đưa nhau về cũ” gồm 63 bài thơ, mỗi bài thơ gắn với một tỉnh, thành phố. Tập thơ như một lưu dấu kỷ niệm trước công cuộc sáp nhập để bước vào kỷ nguyên vươn mình của đất nước. Chị không quên dành một bài thơ cho Hà Nội với tên gọi “Nét thu”: "Hương cốm cạn lòng tay/ sen run rẩy giấc thu xanh mắt/ tường vàng bong tróc/ vết nứt vươn nhành hồi tưởng....". Không phải sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng Lữ Mai cũng đã sinh sống và học tập ở Thủ đô gần 20 năm qua, thơ chị tinh tế, lấy ra được những phong vị riêng của Hà Nội, từ hương cốm, mặt hồ, phố cũ đến những mái vòm. Nhiều câu thơ đẹp hư ảo như chạm vào siêu thực.

Các nhà thơ nữ trong một hành trình từ cổ điển đến hiện đại đã mang Hà Nội vào thơ, viết về Hà Nội bằng tất cả tình yêu chân thành và sâu nặng của mỗi người.

 Tiến sĩ ĐỖ ANH VŨ