Giữ lại truyền thống, dấu xưa

Từ lâu, tôi cứ nghĩ trống bỏi đã mất hình, tuyệt âm trong thế giới tuổi thơ? Nhưng không, vừa qua về quê, tôi lại được nhìn thấy những chiếc trống nhỏ bé, xinh xinh, được nghe thứ âm thanh rộn rã trong thú vui đèn ông sao-trống bỏi của các cháu nhỏ quê mình. Hình ảnh thật, âm thanh sống, mà sao tôi cứ ngỡ nó như vọng về từ hoài niệm tuổi thơ, từ quá khứ xa xôi.

Thấy tôi bất ngờ và thú vị về điều này, người anh họ giải thích: “Chú ít về quê vào dịp Tết Trung thu nên bất ngờ đó thôi. Mấy năm nay, vào dịp Trung thu đã xuất hiện trở lại trò chơi quay trống bỏi của các cháu nhỏ. Thứ đồ chơi này vẫn do người Báo Đáp làm ra và nghe đâu cũng chỉ còn duy nhất một hộ làm trống bỏi”.

Từ thông tin của người anh, tôi vào luôn tổ dân phố Nam Quang 1. Trước đây, thôn Báo Đáp-xứ đạo toàn tòng này, có hơn 300 gia đình làm hoa giấy, đèn ông sao, trống bỏi. Nay thì bà con giáo dân nghiêng hẳn sang làm hoa nhựa, hoa vải, hoa lụa, vì thu nhập cao hơn. Số ít hộ vẫn theo nghề làm đèn ông sao. Đúng là chỉ còn duy nhất một hộ làm trống bỏi, đó là gia đình ông Nguyễn Đức Hưởng.

Hôm trước, tôi bất ngờ vì sau hơn 45 năm (từ ngày vào bộ đội) mới được nghe lại tiếng trống bỏi, còn ở nhà ông Hưởng, tôi lạc hẳn vào “thế giới trống bỏi”. Như ông Hưởng khoe, bây giờ gia đình ông không chỉ là duy nhất trong phường làm trống bỏi, mà duy nhất cả tỉnh, cả nước làm món đồ chơi dân dã, truyền thống này cho các cháu nhỏ. Giới thiệu với chúng tôi về những thùng hàng trống bỏi đang phơi ngoài sân, ông Hưởng chẳng dè dặt:

- Đây là lô hàng 5.000 trống mà khách hàng ở Hàng Mã (Hà Nội) và Bình Hưng Hòa (TP Hồ Chí Minh) đặt bổ sung. Còn hơn 50.000 trống phục vụ Tết trung thu 2025 đã giao hết cho khách hàng.

Ông Hưởng khoe vậy. Tôi thử thăm dò:

- Khi mà đồ chơi trẻ con sản xuất trong nước và nhập ngoại ngày càng nhiều, càng rẻ, lại hấp dẫn, bắt mắt, bắt tai trẻ nhỏ thì vì sao ông vẫn “liều” với nghề làm trống bỏi?

 Tôi hỏi vui vui và ông Hưởng cũng đáp lại thật dí dỏm:

 - Nếu anh bảo tôi “chơi trống bỏi” như ý phê phán của các cụ từ xưa thì đích thực là liều. Còn anh nói tôi vẫn làm trống bỏi thì chẳng liều đâu, ngược lại, vợ chồng tôi rất tự tin theo nghề. Tôi luôn nghĩ rằng, trên mọi lĩnh vực, dù có tân tiến, hiện đại đến đâu, cũng không dễ gì mất đi những nét truyền thống. Vợ chồng tôi luôn khắc ghi lời khuyên nhủ của ông nội và bố mình với con cháu trước khi theo Chúa lên thiên đàng: Cho dù thế nào, cũng không được bỏ nghề làm trống bỏi. Phải giữ nghề, giữ lại thứ âm thanh thân thuộc của làng quê cho các cháu nhỏ”.

leftcenterrightdel

Vợ chồng ông Hưởng quanh năm miệt mài làm trống bỏi. 

 Tri ân ba lô trống bỏi

Theo giá “xuất xưởng”, mỗi chiếc trống bỏi “nhà độc quyền” chỉ bán có 5.000 đồng. Nhưng “góp gió thành bão”, tôi nhẩm tính chỉ với hơn 50.000 trống đã bán hết, thì doanh thu dịp này của gia đình cũng kha khá (hơn 250 triệu đồng). Niềm vui nho nhỏ khác của ông bà là trống bỏi không chỉ bán vào thời kỳ cao điểm Tết Trung thu mà còn “túc tắc” bán quanh năm. Vui nữa, trống bỏi của ông bà đã hoan ca trên tay trẻ em ở nhiều nước trên thế giới.

Đúng là “yêu nghề, nghề không phụ”. Vợ chồng ông Hưởng đã tri ân ông cha, tri ân nghề làm trống bỏi thực là có một không hai. Nghề làm trống bỏi đem đến cho các thế hệ gia đình ông sinh kế bền vững, cuộc sống đủ đầy, tươi vui, luôn sáng đạo lý “tốt đời đẹp đạo”, “kính Chúa-yêu nước”; các thế hệ nâng niu, giữ gìn những giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của quê hương, đất nước.

Khi tôi đã “hòm hòm” chi tiết cho bài viết thì ông Hưởng mới nói thêm một điều hy hữu. Điều mà chính chiếc ba lô trống bỏi đã giữ lại mạng sống cho ông.

Đầu năm 1972, khi đó ông Hưởng mới 12 tuổi, đi bán trống bỏi cùng bố ở TP Hải Phòng. Đêm 15-4-1972, bố con ông tá túc ở ga. Sáng 16-4, hai bố con, mỗi người đeo hai chiếc ba lô đầy trống bỏi (cái trước, cái sau) đi bán rong trên đường phố. Vừa đi khỏi ga Hải Phòng chưa đầy 300m thì bầu trời gầm xé tiếng máy bay Mỹ từ Hạm đội 7 vào đánh phá Hải Phòng. Bố con ông Hưởng chưa kịp tìm nơi trú ẩn thì một mảnh bom sắc lẹm bay vèo tới, găm vào ba lô sau lưng người con. Chiếc ba lô trống bỏi bốc cháy. Ông bố đau đớn, nghĩ tới tình huống xấu nhất đã đến với con, vì bom Mỹ. Nhanh như cắt, ông lao tới, mau lẹ gỡ chiếc ba lô đang cháy ra khỏi lưng con. Ông hoảng hốt xoa khắp lưng con, xem mảnh bom găm vào chỗ nào? Hú vía, lưng con trai vẫn nguyên vẹn, chỉ có một miếng da bên trái đỏ ran. Lúc đó ông mới tin là con mình thoát chết. Hai bố con tìm cách về quê ngay.

Sau này hai bố con ông mới biết thêm thông tin về cái ngày đau thương tang tóc của Hải Phòng do không quân Mỹ gây ra. Hôm đó, Mỹ đã huy động hàng trăm lần chiếc máy bay đánh phá Hải Phòng, giết hại nhiều dân thường. Đến mức, TP Hải Phòng không đủ quan tài mai táng, phải huy động từ các tỉnh lân cận chi viện thì việc hậu sự cho đồng bào Hải Phòng bị bom Mỹ giết hại mới tạm ổn.

Hơn 53 năm đã qua, nhưng bây giờ nghĩ đến sự vụ đó, ông Hưởng vẫn rất hoảng. Chiến tranh do Mỹ gây ra ở Việt Nam thật phi lý, gây bao đau thương, tang tóc cho bao vùng quê, bao người dân Việt Nam, nó len lỏi cả vào món đồ chơi dân dã của trẻ thơ. Bởi vậy, mỗi lần đến nhà thờ, vợ chồng ông Hưởng đều cầu mong Đức Chúa ban phước lành cho Việt Nam và toàn thế giới luôn được hòa bình, không còn chiến tranh, thù hận. Nghĩ về sự vụ đó, vợ chồng ông Hưởng càng thêm gắn bó, thêm yêu nghề làm trống bỏi. Theo ông Hưởng, đó là sự tri ân “sống để dạ, chết mang theo” của ông với trống bỏi.

Từ lúc nghe ông Hưởng kể về chiếc ba lô trống bỏi đã cứu ông thoát chết bởi bom Mỹ, tôi thấy chiếc trống bỏi, nghề làm trống bỏi như có hồn, có cảm, như là một ân nhân cứu người. Tôi hiểu và trân trọng hơn việc giữ hồn quê của các thế hệ gia đình 5 đời làm trống bỏi. Tôi cũng thấy như rõ hơn sự cần mẫn, nâng niu của ông bà trong mỗi công đoạn làm ra chiếc trống nhỏ bé kỳ diệu. Đầu tư cho nghề làm trống bỏi chẳng cần nhiều vốn, công việc cũng chẳng nặng nhọc, nhưng rất cần con mắt thẩm mỹ và bàn tay cẩn thận, khéo léo, cùng tâm hồn bay bổng. Những yếu tố đó hội tụ rất rõ ở vợ chồng ông Hưởng.

Tôi tạm biệt “thế giới trống bỏi” khi vợ chồng ông Hưởng chuẩn bị đến nhà thờ hành lễ phiên 5 giờ chiều. Tiếng chuông ngân nga nơi xứ đạo thanh bình gợi lại trong tôi bao hình ảnh, âm thanh thân thuộc của quê hương, đã thấm vào tôi từ thơ bé. Chuyện mẹ kể về tôi ăn bột “chay” nhờ trống bỏi vui đấy mà cứ rưng rưng...

Năm tôi chào đời, khi đó bố tôi ở chiến trường miền Nam. Hoàn cảnh gia đình tôi khó khăn, thiếu thốn lắm. Vì toàn là bột “chay” nên tôi biếng ăn và cứ khóc ra rả. Cụ Phan Thị Xu, ở trước nhà tôi xót xa, thương cảm, nhớ trước đây đã dùng trống bỏi để dụ hai người con gái là cô Bưởi, cô Cam ăn bột “chay” đã “chuyển giao công nghệ” cho bà và mẹ tôi. Cụ đi chợ Xám mua cho một chiếc trống bỏi và sang nhà tôi thực hành luôn. Mẹ bế tôi, bà nội bón bột, còn cụ Xu... quay trống bỏi. Nghe âm thanh lạ, tôi tròn xoe mắt nhìn, như đã biết vểnh tai lên để nghe trống bỏi. “Chớp thời cơ”, bà nội liên tục đưa thìa bột vào miệng tôi, bởi tôi tém thật nhanh nên đĩa bột “chay” cũng hết vèo. Bà và mẹ tôi cứ làm theo cụ Xu như thế, cho đến khi tôi không ăn bột nữa.

Chuyện tôi ăn bột “chay” có “gia vị” từ trống bỏi là bà, mẹ kể lại. Nhưng sau đó, chính tôi là người quay trống bỏi, dụ các em mình ăn khi là bột “chay”, cháo muối.

Bây giờ việc nuôi dưỡng các cháu nhỏ có điều kiện tốt hơn rất nhiều. Bột, cháo dinh dưỡng ngon và bổ tuyệt, mà nhiều cháu nhỏ vẫn biếng ăn nên các ông bố, bà mẹ lại học cách dụ con ăn. Chỉ là trống bỏi được thay bằng điện thoại thông minh, iPad. Nhưng các bậc phụ huynh cần nhớ cho “dưỡng chất trống bỏi” là “dưỡng chất lành”, còn “chất” của điện thoại thông minh và iPad là rất độc, bởi nó sẽ gây nhiều hệ lụy cho các cháu, như các chuyên gia, nhà khoa học luôn cảnh báo.

 “Không biết bây giờ còn ai dùng trống bỏi dụ con ăn bột? Với tôi, chuyện ấy hay vọng về từ ký ức tuổi thơ, về một thời nghèo khó. Không biết trong số 5.000 trống bỏi vợ chồng ông Hưởng làm bổ sung cho khách hàng ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, cùng số trống mà ông bà làm "túc tắc" quanh năm, có ai mua để khí con, khí cháu ăn bột? Nếu có nhiều thì tuyệt vời biết mấy! Nghĩ vậy, tôi thấy chuyện về chiếc trống bỏi thêm thú vị và thân thương.

Bài và ảnh: TÔ THÀNH TUYÊN