 |
Nhà văn hóa Nguyễn Đình Thi (1924-2003). |
LTS: Vừa qua tại Hà Nội, Công ty cổ phần truyền thông Nguyễn Đình Thi phối hợp với Hội nhà văn Việt Nam và Trường đại học Văn hóa Hà Nội đã tổ chức cuộc hội thảo khoa học “Danh nhân văn hóa Nguyễn Đình Thi”, nhân kỷ niệm 5 năm ngày mất của ông (4-2003/4-2008). Hơn 20 bản tham luận của các nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, văn nghệ sĩ... trong và ngoài nước đã nêu bật những thành tựu VHNT cùng những nét đặc biệt trong sự nghiệp và cuộc đời của một nhà văn hóa lớn, một nghệ sĩ đa tài. Báo Quân đội nhân dân cuối tuần xin trích giới thiệu một số ý kiến đã trình bày tại hội thảo.
GS Hà Minh Đức: Một nhà văn hóa tài năng!
Đỉnh cao với Nguyễn Đình Thi chính là sáng tạo cái mới chưa từng có với thể loại. Không phải chỉ là thể nghiệm mà là thành tựu bền vững được công nhận, được thử thách với công chúng và thời gian. Thể loại nào với tác giả cũng là những thử thách. Âm nhạc, thơ, kịch… là những lĩnh vực mà dấu ấn của tác giả đậm nét và tỏa sáng. Không tránh khỏi hạn chế ở mặt này, mặt khác nhưng tổng thể các tác phẩm của Nguyễn Đình Thi bộc lộ một sức lao động, sáng tạo phi thường của một đời văn kéo dài trên nửa thế kỷ. Có thể nói đến một Nguyễn Đình Thi như nhà thơ tài năng, một tác giả kịch sáng tạo, một nhà lý luận phê bình giàu bản lĩnh, một tác giả văn xuôi luôn đổi mới. Nhưng tiềm ẩn, hiện diện và bao trùm là một nhà văn hóa tài năng. Nhà văn Tô Hoài và nhà thơ Bằng Việt gọi Nguyễn Đình Thi là nhà văn hóa uyên bác, có bản lĩnh văn hóa lớn; nhà sử học Trần Quốc Vượng ca ngợi Nguyễn Đình Thi là nhà văn hóa tài hoa; nhà báo Vũ Văn Hiến xem Nguyễn Đình Thi là nhà văn hóa xuất sắc của đất nước…
Nhạc sĩ Hồng Đăng: Không phải ai cũng đạt được!
Nhắc đến Nguyễn Đình Thi, người ta nhớ đến Nguyễn Trãi ở Đông quan; Con nai đen; Rừng trúc… (kịch); Vỡ bờ, Xung kích… (văn xuôi); Bài ca Hắc Hải, Lá đỏ… (thơ)… Nhưng nói cho cùng, Diệt phát xít và Người Hà Nội của Nguyễn Đình Thi lại để ấn tượng rộng rãi, sâu sắc nhất trong lòng công chúng. Có thể là bất công khi quên bẵng đi giá trị phần đóng góp về âm nhạc của anh Thi. Cũng rất có thể thời gian anh Thi để dành cho việc sáng tạo 2 bài hát không phải trăn trở nhiều như đối với các mảng khác của anh. Nhưng nói về Hà Nội, chắc khó lòng quên được Người Hà Nội. Và bên cạnh thi sĩ Nguyễn Đình Thi, nhà văn Nguyễn Đình Thi, nhà viết kịch Nguyễn Đình Thi, danh hiệu nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi nên có một vị trí xứng đáng. Có những tác giả có hàng nghìn tác phẩm, đọng lại một hai bài là may mắn lắm. Anh Thi có hai bài hát, nhưng cả hai đều là những tác phẩm để đời. Điều đó không phải ai cũng đạt được.
TS Nguyễn Văn Thành: Một bút pháp độc đáo và táo bạo
Nguyễn Đình Thi đến với kịch muộn hơn các thể loại khác, nhưng ngay từ kịch bản đầu tay (Con nai đen) năm 1962, đã như một luồng gió khuấy động mạnh mẽ sinh hoạt văn học và kịch trường đang tĩnh lặng lúc đó vì cung cách viết kịch vừa độc đáo vừa mới lạ của nó. Kể từ đó cho đến năm 1986, đúng một phần tư thế kỷ, Nguyễn Đình Thi trở lại với kịch và lần lượt cho ra đời những tác phẩm đáng chú ý như: Hoa và Ngần (1975), Rừng trúc (1978), Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979), Giấc mơ (1979), Người đàn bà hóa đá (1980), Cái bóng trên tường (1982), Trương Chi (1983), Tiếng sóng (1985)… Kịch bản nào của Nguyễn Đình Thi dường như cũng được viết bằng một bút pháp độc đáo và táo bạo, “chẳng hề giống ai”, gây ngỡ ngàng cho cả đồng nghiệp và công chúng. Đặt những kịch bản của ông vào bối cảnh sinh hoạt sân khấu Việt Nam từ đầu thập niên 60 đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, chúng ta mới hình dung đầy đủ giá trị tìm tòi, cách tân phương pháp biên kịch nhằm mở rộng sức chứa, dung lượng chuyển tải cũng như nâng cao chất văn học, tính khái quát và chiều sâu triết lý…
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân: Người tiên phong đổi mới thơ
Điều tôi lưu ý là sự va chạm, xung đột giữa chuẩn mực thơ mới 1932-1945 với những tìm tòi hậu thơ mới mà Nguyễn Đình Thi thực hiện vào cuối thập niên 1940, cũng tức là thời gian đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Cần phải nói rõ, không khí trong giới văn nghệ đi kháng chiến hồi này là một không khí rất trong sáng, các ý kiến tranh luận, dù gay gắt cũng vẫn rất vô tư. Chính vì vậy, tính xung đột về quan niệm càng thuần túy, thuần khiết. Xin dẫn thêm câu nhận xét trong bài tường thuật của Nguyễn Huy Tưởng: “Do cái không khí rộn rã chung quanh và do cái không khí của bản thân hội nghị, phiên họp tranh luận cuối cùng này về một vấn đề vừa gay go vừa thú vị, là một buổi dốc bầu tâm sự thể hiện trong những câu đối đáp khi kịch liệt mà nồng nàn”. Những tìm tòi về thơ hồi ấy của Nguyễn Đình Thi thực tế là vấp phải những chuẩn mực đã trở thành “quy phạm”. Đó là những quy phạm tuy mềm mại, linh hoạt nhưng vẫn là những giới hạn không dễ vượt qua.
PGS-TS Văn Giá: Những trăn trở với nghề
Một nhà văn lớn thông thường không chỉ sáng tạo nên các tác phẩm văn học, mà còn hay nghĩ ngợi về nghề viết với bao nhiêu công việc bếp núc, những vui buồn cùng hệ lụy mà nghề nghiệp đem lại. Đó là cách tự ý thức về nghề. Suy cho cùng, đã là người cầm bút thì ai cũng có nghĩ ngợi ít nhiều về cái nghề mà mình theo đuổi, nhưng nghĩ về nó một cách ráo riết, rồi lại trình bày nó ra như những xác tín nghề nghiệp thì không phải mấy ai cũng làm được. Tôi muốn nói đến Nguyễn Đình Thi, ông là một trong số những người trăn trở nhiều với nghề, đặt ra nhiều vấn đề để nghĩ. Trong số đó, tôi đặc biệt quan tâm đến vấn đề lao động viết văn, một loại công việc đặc biệt mà nhà văn Nguyễn Đình Thi đã bận tâm về nó trong suốt cuộc đời cầm bút của mình. Cùng với thành tựu ở các lĩnh vực VHNT khác, những tiểu luận, phê bình, bút ký… của Nguyễn Đình Thi giúp ta nhận ra một thân phận nghệ sĩ điển hình trong một thời kỳ lịch sử cụ thể và cũng hiểu thêm giới hạn có tính định mệnh của một nghệ sĩ.
Nhà thơ Hoàng Hưng: Cảm thông với một thân phận
Giờ đây, có dịp đọc tuyển Thơ của đời ông, khi mình đã đi gần hết đời người, đã chứng kiến và chính mình trải qua bao thăng trầm lịch sử và văn chương, tôi bỗng nổi lên tràn ngập trong lòng một nỗi cảm thông lớn lao. Cảm thông với một thân phận do điều kiện lịch sử mà suốt đời chịu cuộc tranh chấp nội tâm không nguôi. Tranh chấp giữa con người nghệ sĩ và con người của đoàn thể. Để đi đến một kết thúc xét về mặt nào đấy thì rất buồn nhưng lại là sự chiến thắng tối hậu của nghệ thuật. Thơ Nguyễn Đình Thi về cuối đời ít được ông công bố ngay khi viết, có lẽ vì chúng là những lời “nói với mình” hơn là nói với bạn đọc công-nông- binh và cán bộ mà ông đã quen coi là đối tượng của mình trước đây. Những bài đạt nhất trong phần thơ cuối đời của ông là những tâm sự về tình yêu mà giờ đây ông mới tìm thấy; là những cảm nhận về vẻ đẹp giản dị, an nhiên của đời sống, là những trầm tư về sự sống và cái chết mang tính phổ quát. Nhưng ở đây, một lần nữa, ta vẫn chứng kiến sự tranh chấp giữa con người nghệ sĩ và con người đoàn thể trong Nguyễn Đình Thi.
Dịch giả Thúy Toàn: Một hướng tiếp cận khác
Là một nhà trí thức Tây học, nhà văn Nguyễn Đình Thi thoạt đầu đã chịu ảnh hưởng những gì của văn hóa-văn học Pháp, cũng như nhiều nước phương Tây; về sau là văn hóa-văn học Nga, văn học Xô-viết. Ông có những mối quan hệ cá nhân với các nhà văn thế giới, đặc biệt với các nhà văn Nga Xô-viết. Vị trí của ông trên các văn đàn thế giới, các bạn bút, các nhà nghiên cứu phê bình văn học ở Liên Xô trước đây, cũng như ở Nga ngày nay và ở các nước khác nhau, viết gì về ông, đánh giá sáng tác của ông như thế nào và nhận định về con người ông ra sao? Các nhà nghiên cứu văn học cũng có thể rút ra nhiều kết luận bổ ích không những về riêng nhà văn Nguyễn Đình Thi mà liên quan đến cả văn học Việt Nam ta, cũng như những mối quan hệ văn hóa giữa hai nước trong quá trình lịch sử. Mong rằng ý kiến đề xuất của tôi được mọi người hưởng ứng và sớm đưa vào thực hiện; mà bước khởi đầu quan trọng là mau chóng tổ chức sưu tầm, thu thập tư liệu, kỷ vật ở nước ngoài liên quan đến nhà văn Nguyễn Đình Thi nói riêng và các nhà văn Việt Nam khác.
MAI NAM THẮNG lược ghi