Hồi nhỏ, sống ở làng, nó là một đứa trẻ nhút nhát nhưng sáng dạ, người xung quanh bảo thế. Lên năm tuổi, nó đã đọc thông, viết thạo, chữ lại rõ ràng, sáng sủa nhưng đến khi đi học, mặc dù trên con đường từ nhà đến lớp có mấy trăm mét, mẹ tôi vẫn phải dẫn đi bởi nó rất sợ trẻ con trong xóm bắt nạt. Nó bắt đầu ngày khai tâm ở đình làng-nơi thờ hai vị thượng đẳng thần là Trương Hống, Trương Hát, những người anh hùng có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Ấy là một cái đình đẹp lớn nhất vùng. Dân làng nó hay nói "to như cái cột đình", "lớn như cái đình", “rộng như cái sân đình”, lại bảo “tội tày đình” và hát: "Qua đình ngả nón trông đình/ Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu...". Trong đình có một quả chuông đồng cũng rất to và đẹp. Tiếng chuông mỗi khi ngân lên thì "ba làng Mịn, chín làng Chờ" và cả "làng Ô Cách chơ vơ một mình" đều nghe thấy, bu nó bảo vậy.

 Cái chuông đó sau này bị người ta đập bán cho hàng đồng nát. Hôm cái chuông bị đập, cả làng nhốn nháo cả lên. Cánh thợ rèn to khoẻ liên tiếp quai những nhát búa tạ vào quả chuông khiến nó oằn lên và hộc ra những tiếng kêu đau đớn, tiếng kêu nghe như có máu trào ra...! Những mảnh chuông được xếp vào từng cái sọt có lót rơm và đưa lên xe bò chở đi đâu không rõ. Lũ trẻ chúng nó buồn rũ mất mấy ngày liền, đứa nào đứa nấy như người mất hồn, dường như chúng vừa mất đi một cái gì thân lắm, gần lắm, Lớn lên khi quả chuông làng không còn nữa, nó mới hiểu hết ý nghĩa của câu ca: “Chuông khánh còn chẳng ăn ai/ Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”.

 Lại nói tới khánh, trong đình làng nó, bên cái chuông lớn, cũng có một cái khánh đá. Mỗi khi được đánh lên, tiếng của nó âm vang, trầm đục như tiếng của ngàn xưa vọng lại...

Nó nhớ, ngoài chuông, khánh còn có đôi ngựa bạch gọi là ngựa thờ rất đẹp. Không biết đôi ngựa ấy có từ bao giờ, nhưng sắc trắng của nó đã bị nước thời gian nhuộm màu. Nó bị ám ảnh nhất là cái hàm răng của đôi tượng ngựa. Rất cũ kỹ, già nua. Dân làng nó có câu: “Răng như răng ngựa thờ” để chỉ hàm răng những đứa trẻ có hàm răng lười được chăm sóc!

Thầy giáo đầu tiên của nó là thầy Sỹ, mặt to, mày rậm, mắt sáng, dáng oai nghiêm như tượng ông ác ngồi chễm chệ bên cạnh tòa tam bảo chùa làng. Giọng giảng bài “i tờ, tờ i ti” của ông rõ và vang. Ông là người xóm Bến cùng làng. Sau này, ông vào bộ đội và nghe nói đã hy sinh ngoài mặt trận.

leftcenterrightdel
Minh họa: Lê Anh 

Nó nhớ những năm đi học, quan niệm dân làng về một người trò giỏi là người “văn hay, chữ tốt”, đặc biệt là “chữ tốt”. Ấy là kiểu chữ chân phương, có nét thanh, nét đậm rõ ràng, ngay ngắn. Thời ấy, các thầy giáo của nó chữ ai cũng đẹp, cũng kiểu mẫu. Nét chữ của các ông, ông giáo Đạm, ông giáo Lưu, ông giáo Đình, thầy Lê Xuân Hội, cô Ngô Hải My... nó nhớ mãi đến tận sau này. Khi ở bộ đội được đơn vị phân công làm báo tường, viết những huân chương, thẻ Đảng, thẻ Đoàn, bằng khen, giấy khen... nó vẫn luôn thầm cám ơn các thầy cô thuở ấy về sự kèm cặp rèn giũa cách viết, lối viết, kiểu ngồi... Và, cả cây bút sắt-loại bút bán ở các hàng xén được làm bằng sắt tây (nó nhà nghèo không có tiền mua cả cây bút thì mua ngòi bút thôi, ngòi được buộc chặt vào một mẩu của chiếc đũa thay cho quản bút).

Bút sắt, mực tím, giấy 5 hào 2 (một tập 20 trang), túi dết là hành trang của đám học trò thời ấy. Áo quần của lũ trẻ là áo nâu may theo kiểu bà ba, chân đi guốc gỗ, con trai thì guốc sơn một màu, con gái guốc vẽ hoa. Tóc cắt ngắn, cắt kiểu móng lừa, cắt cua, cạo trọc tùy. Thời ấy đã là thời mới-thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa rồi nên không còn kiểu tóc “trai hồng mao, gái cun cút” nữa.

Ở lớp, học trò chúng nó nhất nhất phải làm theo thầy. Thầy bảo ngồi tư thế nào, ngồi thế nấy; viết thế nào, viết thế nấy; trái lời là cái thước lim đen bóng của thầy vung lên. Nó vốn nhát đòn nên rất sợ cái thước lim, cái thước ấy dẫu chả đánh ai nhưng ám ảnh nó đến tận bây giờ.

 Sau chữ là giọng. Dân vùng nó vốn phát âm không thật chuẩn tiếng phổ thông, đã hay nhịu nhầm l-n, x-s, tr-ch, d-r... lại có lắm từ địa phương, ví như: Mống (cúi), đắng (cay), bêu (dọa ), tin (trúng), thủm (ngập ), chạy (đi), chạy cố (chạy), ngoi (bơi )... nên cái môn tập đọc với lũ trẻ quả là mệt. Nó nhớ có bận, chỉ mỗi việc đọc một câu trong truyện Nỏ thần: “Đem vật này làm lẫy nỏ|” mà thầy quay cả lớp từ sáng sớm tới thẳng buổi (non trưa).

Nó nhập môn trong cái thế giới khuôn phép như vậy đấy. Mãi tới bây giờ, mỗi khi nhớ về những ngày xa xưa ấy nó vẫn cứ cho rằng mình đã may mắn không phải viết những chữ đầu tiên bằng bút máy, bút bi; không phải viết những chữ đầu tiên theo lối chữ cải cách... vuông như hòm (không phải hòm trong câu “Văn dai như chão, chữ vuông như hòm” của các nhà Nho).

Ấy là những khi ở lớp, còn về nhà, nó lại tìm đến những thế giới riêng. Làm xong nghĩa vụ của một học trò: Làm bài tập về nhà, ôn bài cũ, chuẩn bị bài mới... là nó lại ngồi lì bên cái hòm sách của gia đình với đủ các loại sách. Cái hòm sách ấy có chừng vài trăm quyển thôi nhưng thuộc loại “thư viện” lớn nhất xóm. Nó gồm đủ loại sách: Sách giáo khoa, sách hướng dẫn gieo mạ, nuôi gà, nuôi lợn, cấy lúa, nuôi thả bèo hoa dâu, làm phân xanh ủ phân bắc, rồi Thuỷ Hử, Tây du, Tống Trân-Cúc Hoa, Nhị độ mai, ca dao cải cách ruộng đất... Tất cả những cuốn sách này là mấy người anh của nó tiết kiệm phụ cấp, bán cua cá, tôm tép lấy tiền mua và để lại.

Cáí “kho sách” tả pí lù ấy chính là cái cửa sổ nhỏ đầu tiên để đôi mắt trẻ thơ của nó lúc ấy nhìn vượt được ra khỏi mái rạ, lũy tre và cánh đồng làng... Nó mơ ước có một ngày nào đó được đi xa, thật xa đến những miền đất mà các anh chị nó đang chiến đấu, công tác và học tập.

Nó mê truyện cổ tích, thích ca dao, tục ngữ, quen lối nói quê mùa của dân làng, và chẳng hiểu sao mỗi khi làm bài luận nó lại đưa những cái ấy vào một cách rất tự nhiên, đôi khi rất... tùy tiện. Các thầy dạy văn hồi trẻ của nó lại rất thích lối văn này và động viên, cổ vũ nó thật nhiều bằng cách hay cho những điểm rất cao, thậm chí điểm tuyệt đối. Lại còn đọc cho cả lớp nghe, dán lên tường làm bài mẫu để mọi người làm theo.

 Đầu thập niên 1960, các trường học ở miền Bắc có phong trào phấn đấu đạt 11 điểm 5, tức là điểm tổng kết tất cả các môn đều đạt điểm 5. Lúc ấy miền Bắc áp dụng bảng điểm kiểu Liên Xô, từ 1 đến 5, không có điểm 0, cao nhất là 5, thấp nhất là 1, điểm 2 cũng là kém (gọi là điểm ngỗng).

 Khóa học 1964-1965, nó học lớp 5, chủ nhiệm lớp là thầy Dương Tự Đam (sau này là Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh). Lẽ thường, khi ấy giỏi Văn thường kém Toán và ngược lại. Nó là đứa khá Văn, nhưng Toán cũng không đến nỗi tồi. Năm học ấy nó học lớp 5A. Sĩ số lớp là 55 và tổng kết năm học nó đứng đầu với thành tích tất cả các môn đều đạt điểm 5.

 ... Cho đến hôm nay, nó còn giữ được cuốn “Sổ tay văn học” viết vào cái năm nó được gọi đi học Lớp Văn đặc biệt của thành phố, chuẩn bị cho Kỳ thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc (năm 1966). Nó viết, thực ra là chép lời của một văn hào Nga: “Tôi sống, làm việc, yêu, đau khổ, mơ ước và hy vọng...; nhưng tôi biết chắc chắn một điều rằng sớm hay muộn, trong tuổi trưởng thành hoặc hơn nữa, có khi là trong tuổi già tôi sẽ bắt đầu viết. Tôi viết không phải vì tôi đã đặt cho mình nhiệm vụ ấy mà là vì bản chất tôi phải làm như vậy. Và, bởi vì văn học với tôi là một bộ môn đẹp đẽ nhất của thế giới, của loài người!” (Rút trong “Bông hồng vàng” của Paustovsky).

Tản văn của NGÔ VĨNH BÌNH