QĐND - Kho tàng văn học dân gian Việt Nam đã xuất hiện vô số những nhân vật trở thành biểu tượng của sự thông minh, tài trí, hay xỏ xiên, đả kích những thói dởm đời. Trong số đó, nổi lên bốn nhân vật (thực ra là năm nhưng cặp Ba Giai-Tú Xuất thường được ghép lại thành một) đáng được tôn vinh là “tứ đại quái kiệt”.
Đệ nhất “quái kiệt”
Với những gì còn được lưu truyền đến ngày nay, Trạng Quỳnh xứng đáng đứng đầu trong bảng danh sách này.
Trạng Quỳnh tên thật là Nguyễn Quỳnh (1677-1748), còn có tên Thưởng, hiệu Ôn Như, tên thụy là Điệp Hiên, quê tại làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thân sinh của ông là cụ ông Nguyễn Bổng và cụ bà Nguyễn Thị Hương. Thuở nhỏ, ông học với ông nội và cha (vốn là giám sinh ở Quốc Tử Giám). Năm 1696, Nguyễn Quỳnh thi đỗ giải nguyên, nhưng đi thi hội nhiều lần bị hỏng. Về sau, triều đình bổ nhậm ông làm giáo thụ các huyện Thạch Thất, Phúc Lộc (Sơn Tây), tiếp đến làm huấn đạo phủ Phụng Thiên ở kinh thành Thăng Long. Năm 1718, Nguyễn Quỳnh đỗ khoa Sĩ vọng, được bổ dụng làm tri phủ Thái Bình, rồi về làm Viên ngoại lang ở bộ Lễ, sau bị giáng xuống chức Tu soạn ở Viện Hàn lâm. Tuy không đỗ cao, Nguyễn Quỳnh vẫn nổi tiếng là người học hành xuất sắc. Tác phẩm còn lại của Nguyễn Quỳnh gồm một số bài ký, văn tế mẹ, văn khóc em và hai bài phú chép trong tập “Lịch triều danh phú”. Ông nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước, tạo nên nhiều giai thoại nên trong dân gian vẫn thường gọi ông là Trạng Quỳnh, dù ông không đỗ Trạng nguyên.
 |
Nhà thờ Trạng Quỳnh tại xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ảnh: otofun |
Ngày nay, truyện Trạng Quỳnh lưu giữ được gồm 48 mẩu chuyện. Mỗi mẩu chuyện là một giai thoại trong đời nhân vật nhằm đả kích, châm biếm một ai đó. Có thể là bọn trẻ đồng trang lứa trong làng (Đầu to bằng bồ), kẻ trên (Trời sinh ông Tú Cát), kẻ sang (Miệng người sang), quan thị (Lỡm quan thị), vua (Tiên sư thằng Bảo Thái), Chúa (Đá bèo, Đại phong, Món ăn mầm đá), Thành hoàng, bà Banh, chúa Liễu... Trạng Quỳnh cười, cười bằng sự chơi xỏ và chửi bới, rõ ràng phản ánh tâm lý của người bị trị chống lại kẻ thống trị mình, của kẻ yếu chống lại kẻ mạnh.
Ông Trạng may mắn
Trạng Lợn có lẽ là nhân vật “phức tạp” nhất trong số “tứ đại quái kiệt”. Cho đến ngày nay, các nhà sử học vẫn khó có thể xác định chính xác và đầy đủ danh tính của Trạng Lợn. Có nguồn cho rằng Trạng Lợn là Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư. Có nguồn lại cho rằng ông tên là Dương Đình Chung. Chỉ có một thống nhất chung rằng thời kỳ mà Trạng Lợn sống là đời vua Lê Thánh Tông.
Hiện có tới hai truyền thuyết về nguồn gốc của Trạng Lợn. Truyền thuyết thứ nhất, ông hiệu là Tùng Khê, người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Tương truyền lúc nhỏ theo cha làm nghề thịt lợn, lại đẻ vào tháng 10, tức tháng Hợi, nên đặt tên là Nguyễn Văn Trư và thường gọi là cậu Lợn. Trư bản tính nhanh nhẹn, thông minh. Lúc nhỏ có lần cùng bố đi bắt lợn, gặp kiệu ông Nghè vinh quy, Trư hỏi: “Ông gì thế bố?”. Người cha đáp: “Ông Trạng!”. Trư nói: “Lớn lên con cũng làm ông Trạng!”.
Thuở nhỏ, Trạng Lợn nổi tiếng học giỏi. Khoa thi Mậu Thìn (1448), niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 đời vua Lê Nhân Tông, ông đỗ Trạng nguyên. Tương truyền đêm trước ngày thi đình, vua Lê Thánh Tông nằm mơ thấy lợn đỗ trạng, vua xem bảng thấy trạng tân khoa là Nguyễn Văn Trư. Dân gian coi yết bảng cứ kháo thành vè “Long đầu lợn-Nguyễn Văn Trư”. Vua liền đổi tên cho Trạng là Nguyễn Nghiêu Tư. Ông làm quan đến chức An phủ sứ Hàn lâm trực học sĩ, đi sứ nhà Minh lại phong Lại bộ thượng thư, về phong Chưởng lục bộ thượng thư.
Năm 1459, Lê Nghi Dân giết vua tiếm vị, sai Nguyễn Nghiêu Tư đi sứ cầu phong. Khi đoàn sứ thần ta tới ải Nam Quan, viên coi cửa ải nhà Minh ỷ thế nước lớn, ngạo mạn treo lên cửa quan một chữ thập lớn bằng gỗ mà không mở cửa đón tiếp. Trạng nói: “Ý các người muốn coi người Minh là tung hoành vũ trụ”, đã vậy thì Đại Việt ta đây “bao quát càn khôn”. Ông sai người bện một cái vòng tròn lớn bằng lụa mắc lên đầu chữ thập, cả chữ thập lọt trong vòng tròn ấy. Viên quan coi ải khiếp phục, mở cửa quan nghênh tiếp sứ giả. Khi tiếp kiến, vua Minh hạch: “Sao lại dám giết em mà tranh ngôi vua?”. Nghiêu Tư trả lời: “Đường Thái Tông giết cả anh là Kiên Thành, em là Nguyên Cát là việc cũ của thiên triều, thì việc nước tôi ngày nay có gì là lạ?”. Thấy sứ thần Đại Việt trả lời rất đúng lý, vua Minh đành nhận phong vương. Trong thời gian ở Trung Quốc, ông lập được nhiều công lớn, nhất là việc dạy hoàng tử học, được vua Minh rất đỗi quý phục phong ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên.
Truyền thuyết thứ hai xuất hiện ở đất Hà Nam. Theo truyền thuyết này, ở làng Dừa thuộc tỉnh Hà Nam có gia đình ông Lương họ Dương cũng hành nghề bán thịt lợn, sinh được con trai đặt tên là Dương Chung Nhi. Khi đã thành niên thì cha mất, Chung Nhi chỉ chơi bời lêu lổng, bị mẹ mắng thì lại bảo sau này con sẽ làm quan Trạng cho mẹ xem. Từ đó, Chung Nhi được mệnh danh là Trạng Lợn. Thấy mẹ không tin, Trạng quyết chí xin đi thi. Trên đường đi, Trạng bị lạc vào một ngôi miếu hoang. Tại đây, Trạng gặp một ông lão nói cho biết rằng năm nay khoa thi sẽ hoãn và dạy Trạng cách xem bói để lên kinh thành kiếm sống, đồng thời dặn mùa xuân sang năm ra cổng phía đông kinh thành ngồi, hễ thấy có ai nhảy từ trên thành xuống thì cõng lấy chạy đi. Y lời ông lão, Trạng lên kinh thành hành nghề bói toán, cũng lại may mắn nên lần nào cũng nói linh tinh mà vẫn trúng. Đến mùa xuân năm sau, Trạng ra cổng thành phía đông ngồi. Một đêm bỗng thấy có người ngã. Trạng chạy lại cõng thì quân lính đuổi tới, nhưng Trạng đã nhanh chân cõng người kia chạy về trốn ở chùa Thầy. Người được cứu chính là Lê Thánh Tông sau này. Do Lê Nghi Dân cướp ngôi, giết hại trung thần nên hoàng tử Lê Tư Thành bị quân lính truy đuổi. Ít lâu sau, Lê Nghi Dân bị phế, hoàng tử Lê Tư Thành về cung lên ngôi vua. Để trả ơn cứu mạng, vua sẵn lòng ban bạc vàng, nhưng cho gì Trạng cũng không lấy, chỉ xin vua phong là Trạng nguyên. Triều đình can ngăn vì Trạng nguyên là người phải thi đỗ mới được, còn có công thì thưởng bạc vàng là xong. Tuy vậy vua Lê Thánh Tông vẫn đồng ý phong Trạng. Một hôm nhà vua về chùa Thầy để lễ tạ và ban cho các vị sư trụ trì rất nhiều vàng bạc để tu bổ lại chùa. Đến khi sửa đến gác chuông, nhà vua đọc “Thiên lý trọng kim chung” rồi hỏi bách quan có ai đối được không. Tất cả đều đứng ngây như phỗng. Nhớ lại câu đối ở nhà Bùi công, Trạng Lợn đọc ngay “Bát đao phân mễ phấn”. Vua khen hay và cho là phong Trạng nguyên cũng không quá.
Từ đầu đến cuối truyện, Trạng Lợn đều nổi bật lên là một nhân vật không biết gì, nhưng lần nào cũng may mắn thành công.
Hậu duệ của Trạng Quỳnh
Xiển Bột tên là Nguyễn Xiển, sống ở cuối thời phong kiến của Việt Nam, tại làng Hoằng Bột, nay là xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông được cho là hậu duệ của Trạng Quỳnh. Tương truyền khi mới sinh ra, Xiển mặt vuông chữ điền, tai to như tai Phật, mồm rộng, mắt sáng. Người ta gọi Xiển là Xiển Bột vì quê Xiển ở làng Hoằng Bột. Ông sống bằng nghề làm thuốc.
Xiển Bột nổi tiếng trong dân gian vì những câu chuyện cười dí dỏm, châm biếm, đả kích những thói xấu của xã hội, những quan lại, cường hào chuyên hiếp đáp dân lành. Những câu chuyện hài hước được kể lại cho thấy ông không những trừng trị bằng trí tuệ đối với các đối tượng quan lại, cường hào mà thậm chí còn hý lộng đến cả người lãnh đạo cao nhất là nhà vua. Ðồn rằng có một lần vua ngự tuần ra Thanh Hóa. Nghe nói con cháu Trạng Quỳnh vẫn còn, vua bèn cho đòi đến. Xiển vâng lệnh tới hầu. Vua hỏi: “Trước khi Trạng chết có trối trăng lại điều chi không?”. Xiển đáp rằng: “Trạng có trăng trối một câu nhưng không dám nói”. Vua gặng hỏi, Xiển từ chối, đến cuối cùng Xiển mới thưa: “Tâu hoàng thượng, ông tôi kể lại rằng: Trước khi cố tôi nhắm mắt, con cháu xúm xít quanh giường hỏi cố tôi có dặn con cháu điều chi không. Nhưng cố tôi không trả lời. Con cháu không yên tâm, cứ gặng hỏi mãi, cố tôi chỉ quát lên một câu: “Hỏi cái mả cha bay hay sao mà hỏi mãi rứa?” rồi tắt thở”.
Xiển làm thuốc, vua thường vời vào kinh chữa bệnh. Một hôm, Xiển vào thăm vua vì nghe nói vua mắc phải bốn bệnh hiểm nghèo mà sách gọi là “tứ chứng nan y”. Và Xiển cho biết tứ chứng nan y đó là què, mù, câm, điếc. Vua nổi giận vấn hỏi, Xiển Bột đáp rằng là có nguyên do vì: “Thiên hạ thấy Hoàng thượng suốt năm chỉ quanh quẩn trong cung điện nên họ lầm tưởng là ngài què. Nước sắp mất mà Hoàng thượng vẫn ung dung vui thú, nên họ lầm tưởng là ngài mù. Trước cảnh núi sông bị quân giặc giày xéo mà Hoàng thượng cứ ngồi im, nên họ tưởng là ngài câm. Khắp nơi người ta đều kêu Hoàng thượng là kẻ hèn yếu, khiếp nhược nhưng ngài vẫn làm ngơ ký hòa ước hàng giặc, nên họ lầm tưởng là ngài điếc”. Vua biết Xiển chửi mình, tức uất người nhưng không đủ lý lẽ để bắt tội được.
Giai thoại Ba Giai - Tú Xuất
Ba Giai - Tú Xuất là hai người khác biệt nhưng vì sự “tương ngộ” đặc biệt mà dân gian thường ghép hai tên này thành một.
Tú Xuất tên thật là Nguyễn Đình Xuất, con một đốc học Hà Nội, gốc ở Thanh Hóa (hoặc Nghệ An), sống tại làng Chuông, xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ), giai đoạn cuối thế kỷ 19. Ông là người thông minh, tri thức hơn người nhưng hay gặp thất bại trong khoa cử, từ đó sinh ra tính hay bông đùa, trêu cợt, đặc biệt là đả kích vào những thói hư, tật xấu và những tiêu cực của người đương thời.
Ba Giai có tên thật là Nguyễn Văn Giai, năm sinh và năm mất không rõ, tuy nhiên theo nhiều nhà nghiên cứu văn học, thì rất có thể ông sống vào khoảng thời gian dưới triều Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883). Cha ông là cụ Nguyễn Đình Báu, người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, TP Hà Nội). Ông là con thứ ba trong gia đình nên có tên gọi là Ba Giai. Sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó, cha mẹ đều mất sớm, năm 18 tuổi, chú bác muốn ông chăn giữ trâu, nhưng ông không thuận, chỉ muốn dùng tài học để lập thân. Vì vậy, ông phải đi gánh thuê để có tiền ăn học. Học giỏi, nhưng gặp lúc nước nhà lâm cảnh loạn lạc nên ông không đi thi. Trong hoàn cảnh sở học không có sở dụng khi đất nước chuyển sang chuộng Tây học, Ba Giai trở thành một nho sĩ bất đắc chí. Về sau ông nghỉ học, lập một xưởng in sách “Tam tự kinh” ngay ở trong làng gọi là nhà sách Quảng Văn để sinh sống và có điều kiện học hỏi, giao lưu với bạn bè. Một trong những di bút còn lại của ông được lưu giữ trong quyển tộc phả của dòng họ, do một người cháu chi trưởng chắp bút, ông viết đề tựa.
Không rõ Ba Giai gặp và kết bạn với Tú Xuất như thế nào, vào lúc nào. Cùng là những nhà nho bất đắc chí, thông minh, mưu mẹo nhưng tài năng bất sở dụng, cặp bài trùng Ba Giai-Tú Xuất dần được nhiều người biết đến qua những đồn đại về những trò trêu ghẹo, những bài thơ châm biếm, chế giễu những nhân vật có tai tiếng tại Hà Nội. Từ việc căm ghét bọn “chó săn tay sai, nịnh bợ Tây” dùng lời thơ trào lộng chế giễu chúng, Ba Giai đã cùng Tú Xuất biểu lộ thái độ bất bình, không chấp nhận cái trật tự xã hội đó bằng trí tuệ theo cách riêng của mình để đánh gục uy thế của chúng bằng cách phơi trần bản chất và bộ mặt thực của chúng ra trước đông đảo quần chúng. Những giai thoại của hai ông một thời được lưu truyền sâu rộng ở miền Bắc, được dân gian hưởng ứng, xem là những câu chuyện để giải trí, mua vui. Tuy nhiên, kết cục của hai ông đều không rõ ràng, biến mất như một trong những bí mật của lịch sử.
NGUYỄN HOÀI (sưu tầm và biên soạn)