QĐND - Cố Thiếu tướng Võ Bẩm (1915-2008) nguyên Đoàn trưởng đầu tiên của Đoàn 559 (Bộ đội Trường Sơn), nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Bộ Quốc phòng, cũng chính là người vinh dự được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ xây dựng lực lượng và nghiên cứu phương thức hoạt động của những con tàu không số chở hàng chi viện miền Nam bằng đường biển, tiền thân của Đoàn tàu không số và Đường Hồ Chí Minh trên biển những năm sau này.

Thiếu tướng Võ Bẩm (1915-2008)

Trong hồi ký “Những nẻo đường kháng chiến” (NXB Quân đội nhân dân-2001) đồng chí Võ Bẩm kể: Sau khi Đoàn vận tải 559 được thành lập (19-5-1959), mặc dù đã rất cố gắng, nhưng với chưa đầy 500 quân, vừa mở đường vừa vận chuyển, nên khối lượng hàng hóa chuyển vào chiến trường còn rất hạn chế. Không những thế, tuyến giao liên vận tải Trường Sơn cũng chỉ mới với chiến trường Trị-Thiên và Khu 5. Việc trang bị vũ khí cho lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam-nhất là vùng Nam Bộ-lúc này hết sức khẩn thiết. Vì vậy, ngay từ những ngày đang tập trung cho việc thiết lập tuyến giao liên vận tải xuyên Trường Sơn, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh-Thứ trưởng Bộ Quốc phòng lúc đó-đã triệu tập đồng chí Võ Bẩm lên bàn việc mở tuyến chi viện miền Nam bằng đường biển. Chọn Võ Bẩm bởi ông không chỉ là chỉ huy trưởng tuyến vận tải chiến lược Bắc-Nam vừa hình thành, mà còn vì ông là dân vùng biển Quảng Ngãi, trong kháng chiến chống Pháp từng được giao nhiệm vụ tổ chức đội tàu vượt biển sang Trung Quốc mua vũ khí về cho chiến trường Khu 5.

Sau khi nghe đồng chí Võ Bẩm trình bày ưu thế cũng như khó khăn về vận tải đường biển, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh nói: 

- Đúng là mạo hiểm, là khó khăn, nhưng cũng chính vì vậy mà kẻ địch dễ sơ hở, chủ quan, ta nên triệt để khai thác điều đó. Vả lại, chỉ cần một vài chuyến trót lọt cũng bằng hàng nghìn người mang vác đường rừng; lại còn vào sâu tận Nam Bộ...

Để tổ chức được một tiểu đoàn vận tải đường biển theo ý định của trên, đồng chí Võ Bẩm xuống Hải Phòng làm việc trực tiếp với Cục Hải quân (nay là Bộ Tư lệnh Hải quân). Cục Hải quân rất nhiệt tình giúp đỡ, cử hai cán bộ là Hà Văn Xá và Lưu Đức về nhận nhiệm vụ mới tại bộ phận của đồng chí Võ Bẩm. Hai anh đều là người miền Nam tập kết giàu kinh nghiệm tổ chức vận tải trên biển thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Liền sau đó, ông Võ Bẩm cùng hai anh đến Sư đoàn 324, Sư đoàn 305 và một số đơn vị thuộc Quân khu 3 tìm kiếm thêm một số cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết thạo nghề sông nước để thành lập đơn vị vận tải biển. Thật may mắn, ở những đơn vị kể trên có nhiều anh em quê Quảng Nam và Quảng Ngãi vốn là ngư dân. Đặc biệt thuận lợi nữa là trong số anh em chọn được, có hơn một chục người vốn là thành viên của Đoàn 248 vận tải biển Liên khu 5 trong thời kỳ chống Pháp. Trong đó có các anh Nguyễn Bất, Nguyễn Nữ đã từng là Chiến sĩ thi đua của Liên khu 5. Khi lực lượng tìm kiếm được từ các nơi hội về tương đối đầy đủ, tháng 7-1959, Tiểu đoàn vận tải biển 603 chính thức được thành lập, gồm 107 cán bộ, chiến sĩ. Hầu hết là đảng viên.

Vừa xây dựng lực lượng, anh em vừa tổ chức khảo sát các cửa biển ở Quảng Bình, chọn cảng cá Thanh Khê, cách cửa sông Gianh bốn cây số về phía Nam, làm vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 603. Sau khi về đây, tiểu đoàn được mang tên là “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”. Những ngày tiếp đó, các thủy thủ trong vai dân chài vừa xây dựng nhà cửa vừa chẩn bị ngư cụ. Cái khó lúc này là làm sao có được thuyền giống hệt thuyền đánh cá của ngư dân ven biển Nam Trung Bộ. Đồng chí Võ Bẩm trực tiếp lặn lội xuống Phà Rừng ở Hải Phòng và vào tận Nghệ An tìm thợ đóng thuyền kiểu Khu 5. Sực nhớ có một người bạn thân vốn là thợ đóng thuyền giỏi cùng quê là anh Phạm Kỳ, nay cũng là “dân” tập kết đang ở miền Bắc, đồng chí Võ Bẩm tìm cách liên lạc ngay. Anh Kỳ vốn là cơ sở được đồng chí Võ Bẩm giác ngộ cách mạng rồi giới thiệu vào Đảng từ năm 1935. Sau khi tập kết ra Bắc, anh Kỳ chuyển về công tác tại Nhà máy xe lửa Gia Lâm. Thế là chỉ vài ngày sau Phạm Kỳ đã được điều động về “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”.

Có được thuyền rồi, nhưng lại thiếu buồm. Ngư dân Khu 5 không dùng buồm bằng vải mà được kết bằng một loại lá cây, gọi là lá đệm. Khu vực Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh... tuyệt nhiên không có cây lá đệm. Đơn vị phải liên hệ nhờ các đồng chí ở Quảng Trị giúp kiếm cho mấy tấn đệm làm buồm và bí mật đưa qua sông Bến Hải an toàn. Đến cuối năm 1959, Tiểu đoàn đã có được hai chục chiếc thuyền, đủ chứng minh thư giả, có dấu nổi của tỉnh trưởng Quảng Nam hẳn hoi. Vừa hoàn tất công tác chuẩn bị, đơn vị vừa cho anh em “ra khơi” tiến hành đánh cá ven biển từ cửa Gianh vào cửa Tùng giáp vĩ tuyến 17 và tiếp đó tổ chức vận chuyển hàng tiếp tế cho bộ đội trên đảo Cồn Cỏ.

Sau một thời gian “tập dượt” như trên, cấp trên đồng ý cho đơn vị thực hành nhiệm vụ. Đúng đêm Ba mươi Tết (27-1-1960), trong khi nhân dân quanh vùng đang chìm trong không khí tất niên, tại cảng cá Thanh Khê của tỉnh Quảng Bình, những người lính của “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh” bắt tay vào thực hiện một chuyến vượt biển đặc biệt. Điểm đến là bến Hồ Chuối dưới chân đèo Hải Vân. Sáu cán bộ, chiến sĩ được chọn đưa chuyến hàng đầu tiên vào Nam là các anh: Nguyễn Bất (thuyền trưởng), Trần Mức (thuyền phó), Nguyễn Sanh, Huỳnh Sơn, Nguyễn Nữ và Huỳnh Ba (Nguyễn Nửa). Trừ anh Trần Mức là người Quảng Ngãi, năm anh em còn lại đều là người Quảng Nam. Nhiệm vụ của các anh là chuyển năm tấn vũ khí và thuốc quân y vào cho chiến trường Khu 5.

Đúng phút giao thừa, thuyền kéo neo rời bến. Cũng từ lúc đó, tất cả Ban cán sự Đoàn 559 cùng cán bộ và chiến sĩ Tiểu đoàn 603 sống trong hy vọng bồn chồn. Nhưng rồi ngày qua ngày, tất cả đều rơi vào tĩnh lặng. Mấy ngày sau, tổ điện đài từ chân đèo Hải Vân báo về không thấy bóng dáng thuyền vào. Mãi sau này, mọi người mới được biết: Sau khi rời cảng Thanh Khê, các thủy thủ cho thuyền chạy ra vùng biển quốc tế, để từ đó tiến dần về Nam và cặp chân đèo Hải Vân. Nhưng ngày hôm sau, gió chuyển hướng Đông Nam mỗi lúc một to hơn. Sóng biển duềnh lên như muốn nuốt chửng con thuyền. Sáu anh em gắng sức chống chọi với sóng gió, cố giữ làm sao để thuyền khỏi lật. Nhưng sức người không lại với sức gió. Thuyền cứ dạt dần, dạt dần vào vùng biển gần đảo Lý Sơn thuộc địa phận Quảng Ngãi, cách đất liền nơi gần nhất là mũi Ba Làng An chừng 23 cây số. Rạng ngày hôm sau, biển đã lặng gió nên thuyền của dân đổ ra nhiều, lại thấy bóng dáng tàu tuần tiễu của địch đang theo dõi nên thuyền trưởng Nguyễn Bất quyết định phi tang ngay hàng. Vậy là sáu anh em ruột đau như cắt, ném vội năm tấn súng đạn, thuốc men xuống biển. Chiều hôm đó, cả sáu người bị địch bắt, mặc dù thuyền và người đều có giấy tờ “hợp pháp”. Anh em thống nhất khai là thuyền đánh cá gặp bão trôi dạt vào. Kẻ địch đã giam riêng từng người để khai thác. Có người bị giam ở Đà Nẵng, có người bị đưa khám Chí Hòa, Phú Lợi (Sài Gòn); anh Huỳnh Ba (Nguyễn Nửa) còn bị đày ra Côn Đảo, sau Hiệp định Pa-ri năm 1973 mới được trao trả. Anh Nguyễn Bất bị giam ở Đà Nẵng, đã bí mật móc nối được với cơ sở để tổ chức trốn thoát. Sau đó, Nguyễn Bất đã tự tìm đường ra miền Bắc. Bốn người còn lại đều lần lượt hi sinh trong lao tù kẻ địch...

Từ chuyến đi đầu tiên không thành của Tiểu đoàn 603, cùng với những khó khăn do phải xoay sở điều hành cả hai tuyến chi viện là đường Trường Sơn và đường biển, nên lãnh đạo Đoàn 559 thống nhất đề nghị cấp trên cho chuyển nhiệm vụ chi viện bằng đường biển sang Cục Hải quân. Tháng 4-1960, Tiểu đoàn 603 giải thể. Một số cán bộ chủ chốt của tiểu đoàn về lại Cục Hải quân. Lực lượng còn lại sáp nhập vào Đoàn 301 giao liên vận tải bộ trên đường Trường Sơn.

Tiểu đoàn vận tải biển 603-“Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”-chỉ tồn tại trong vòng gần 10 tháng, nhưng đã để lại những kinh nghiệm quý để sau này tổ chức thành công Đoàn tàu không số và tuyến vận tải đặc biệt: Đường Hồ Chí Minh trên biển! 

Tầm Thư