QĐND - Trong cuốn hồi ức của Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, tôi đọc được câu này: “Tôi là một trong năm người trưởng thành từ lính nghĩa vụ đầu tiên được phong quân hàm cấp tướng”. Câu đó như một tổng kết cô đúc cuộc đời binh nghiệp của ông, cuộc đời của một vị tướng đi từ thực tiễn lên, gian nan, máu lửa, với những trận đánh, những mất mát và cận kề với cái chết. Hành trình của Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu là hành trình từ làng quê thanh bình tới chiến trường, sau đó tới vùng trời của những tri thức, với những công trình nghiên cứu, khảo cứu và với danh hiệu Tiến sĩ, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học quân sự Liên bang Nga.

 Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu nhận danh hiệu Viện sĩ. Ảnh: KB

Tính đến nay, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu đã cho xuất bản gần chục đầu sách. Những cuốn sách ấy là kết quả của sự nghiên cứu, tham khảo, của những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn công việc cũng như những trải nghiệm của chính cuộc đời ông. Tướng Hiệu bàn tới nghệ thuật quân sự, tới ngoại giao quân sự, tới phương châm bốn tại chỗ, tới giải quyết hậu quả chiến tranh, tới quân đội với chiến lược bảo vệ môi trường... Tham gia công tác nào ông cũng nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng, thấu đáo và có những tổng kết đích đáng, trên cơ sở khoa học.

Tôi đọc ông bắt đầu từ “Một thời Quảng Trị”, cuốn hồi ức tràn trề bom đạn, lửa máu, tràn trề những mất mát và cũng tràn trề tình cảm người lính, thứ tình cảm bất tử nhất của con người, bởi nó được thử thách ở nơi gần cái chết nhất. Đó là cuốn hồi ức gây cho người ta ấn tượng rõ nét về chiến tranh. Hầu như toàn bộ những gì chiến tranh có, những ngón đánh, những tình huống, những loại vũ khí, những kiểu tổn thất và những cách thức tiêu diệt nhau, đều có mặt tại cuốn sách này. Đó là cuốn hồi ức đáng kể, nó không thể tóm tắt, mà phải đọc trực tiếp. Qua cuốn hồi ức ấy, ta hiểu thêm phần nào chân dung của người lính trong chiến tranh.

Ở cuốn “Một số vấn đề nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc”, tôi thấy tư duy khoa học quân sự của tướng Nguyễn Huy Hiệu rõ ràng, mạch lạc. Trong những khảo cứu ấy, ông đưa ra nhiều nhận xét đích đáng. Cái sắc sảo trong phân tích quân sự của một vị tướng đã thực sự thuyết phục người đọc. Một tổng kết nữa về quân sự mà tôi cho rằng cũng đáng để suy nghĩ. Nguyễn Huy Hiệu tổng kết trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, những cuộc tiêu diệt địch có ý nghĩa chiến lược đều diễn ra vào mùa khô, từ trận Bạch Đằng đến trận Rạch Gầm-Xoài Mút, cho tới chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Sau đó ông kết luận: “... tác chiến theo mùa khí hậu đã trở thành hiện tượng có tính quy luật chung đối với các nước trên bán đảo Đông Dương và nói riêng đối với Việt Nam”.

Cũng vẫn trong tương quan quân sự, nhưng với khía cạnh khác, phức tạp hơn, uyển chuyển hơn, trong cuốn “Một số vấn đề về công tác đối ngoại quốc phòng Việt Nam”, Nguyễn Huy Hiệu lại cho thấy một góc nữa về trí tuệ của ông. Một sự suy ngẫm có chiều sâu, nhân văn nhưng vẫn giữ được cái chất uy vũ của tướng lĩnh trong dòng nghĩ chủ đạo. Công trình này theo suốt cả lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tới cuộc kháng chiến chống Pháp, đối ngoại quân sự được phát huy tối đa, mà người đại diện tiêu biểu, xuất sắc nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói cuốn “Một số vấn đề về công tác đối ngoại quốc phòng Việt Nam” hình như chưa được dư luận đánh giá đúng với giá trị mà nó chứa đựng. Nguyễn Huy Hiệu cho rằng ở thời đại này, với tình thế này thì “đối ngoại quân sự là nhiệm vụ của toàn quân”. Một nhận định mang tính thời cuộc lớn.

Không chỉ dừng ở nghệ thuật quân sự, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu còn tham gia nghiên cứu và có những tổng kết, đánh giá, những đề xuất quan trọng trong lĩnh vực rà phá bom mìn sau chiến tranh. Những bài viết của ông trong cuốn “Quân đội với vấn đề hậu quả sau chiến tranh” là những bài viết sắc sảo, có luận cứ, có trách nhiệm, chứa đựng tính nhân văn cao. Những bài viết ấy cho thấy cái xót xa của người lính khi chứng kiến di hại của cuộc chiến còn lởn vởn từng giây, từng phút trên đất nước, trong từng nhà, từng cá nhân. Tôi cho rằng, lương tâm con người được đặt lên cao nhất, không hẳn ở trong chiến tranh mà là ở sau chiến tranh, ở cách thức nhìn nhận nó, đánh giá nó, khắc phục hậu quả của nó.

Khi được giao nhiệm vụ là Phó chủ tịch Thường trực Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm, cứu nạn, trực tiếp tham gia chỉ đạo công tác cứu nạn ở các địa phương, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu đã phát huy hết những kinh nghiệm, trí tuệ của mình cho nhiệm vụ này. Qua những lăn lộn tại địa bàn, khi chỉ đạo phòng, chống bão lũ, ông đã đề xuất phương châm Bốn tại chỗ. Theo cuốn “Vận dụng phương châm bốn tại chỗ trong phòng, chống thiên tai”, thì Bốn tại chỗ là: Chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ, hậu cần tại chỗ. Đó chính là bài giải hữu hiệu nhất cho đến thời điểm này cho mặt trận chống thiên tai của nước ta. Dựa trên phương châm ông đề xuất, Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm, cứu nạn đã trực tiếp chỉ đạo các cuộc diễn tập có quy mô lớn ở Hải Phòng, Nam Định, Đồng Tháp, Điện Biên, Vũng Tàu.

Qua những cuốn sách tâm huyết của tướng Nguyễn Huy Hiệu, tôi thấy ông thực sự là hình ảnh tiêu biểu cho một hành trình đích thực của một người lính, không chỉ ở nghĩa binh nghiệp mà theo nghĩa rộng hơn.

Nguyễn Bình Phương