Đặt ra vấn đề này, chúng ta lập tức đối diện với một quan niệm mang tính truyền thống về sự nghèo túng, khó khăn của nhà văn. Viên Mai trong Tùy viên thi thoại đã từng viết: Lập thân tối hạ thị văn chương (Lập thân thấp hèn nhất là văn chương). Chẳng ở đâu xa, trong văn chương Việt Nam đã từng có người thốt lên: Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ/ Nghèo lắm, con ơi! Bạc lắm con! (Nguyễn Bính); Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với khách thơ (Xuân Diệu); Văn chương hạ giới rẻ như bèo (Tản Đà)… Không những thế, ngay tâm thức cộng đồng ở Việt Nam vẫn bị ám ảnh bởi những hình dung có tính cố hữu về nhà văn, nhà thơ-những kẻ nhếch nhác, nghèo đói, thiếu thực tế, đã thế lại có vẻ coi thường tiền bạc, thậm chí không ít người cho rằng nghệ sĩ thì phải bê tha, phóng túng… (Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác/ Mà vẫn coi tiền như cỏ rác! - Nguyễn Vỹ). Tuy nhiên, phải nhìn nhận một cách thực tế hơn vào đời sống của nhà văn, trên tinh thần của một phân tích, mô tả xã hội học, để trả lời cho câu hỏi đã nêu ở trên.

Minh họa: LÊ ANH

Để kiếm tiền người ta sẽ đi làm kỹ sư, bác sĩ, doanh nhân… nghĩa là một nghề không liên quan gì đến văn nghệ. Nhưng, khi giao đãi sơ ngộ, gặp gỡ, giới thiệu, người ta lại thích được gắn cho mình danh hiệu nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ… Có lẽ đây là tàn dư của tâm lý trọng danh, trọng sĩ trong cơ cấu giai tầng xưa (Sĩ-Nông-Công-Thương). Cũng phải nhận thấy một điều nữa, đó là trong hệ thống giá trị tượng trưng, nghệ sĩ, trí thức vẫn là thành phần được xã hội nể vì. Ở các nước phương Tây, nhà thơ và triết gia được xem là người gìn giữ linh hồn dân tộc, là bậc thầy ngôn ngữ-tư duy của dân tộc. Từ cổ đại, Plato đã quan niệm thi sĩ là sứ giả của thánh thần. Thế nên, địa vị của văn-thi sĩ rất lớn trong tâm thức cộng đồng. Nhưng, thực tế đã thể hiện, những bậc danh giá ấy lại rất nghèo túng về mặt vật chất.

Có một tình trạng chung, đó là nhuận bút từ việc sáng tác văn chương ở Việt Nam khá thấp. Mỗi bài thơ khoảng một trăm năm mươi đến ba trăm nghìn đồng, một truyện ngắn khoảng tám trăm nghìn đến hai triệu đồng. Ngặt một nỗi, mỗi tờ báo thường luân phiên cộng tác viên, bài mới, người mới, không đăng liên tục một tác giả. Vì vậy, nguồn thu này xem ra không ổn định.

Nguồn nhuận bút lớn hơn của các nhà văn thường là viết báo. Tuy nhiên, trừ một số nhà văn là nhà báo chuyên nghiệp, còn nguồn này cũng không ổn định, liên tục ở một báo. Vì vậy, nhà văn cộng tác với nhiều báo, nhiều diễn đàn, nhằm lấp kín các khoảng trống do tòa soạn đặt ra trong việc cộng tác với một tác giả. Một số công việc khác cũng có thể mang lại nguồn thu cho nhà văn như: Dịch thuật, trò chuyện trên các diễn đàn văn hóa văn nghệ, các tụ điểm văn hóa, trường học, các chương trình tọa đàm, hội thảo, kỷ niệm… Mỗi cuộc nói chuyện, tọa đàm trên các cơ quan truyền thông đại chúng có mức thù lao từ ba trăm nghìn đến năm triệu đồng (tùy tính chất sự kiện, đơn vị tổ chức và tầm vóc, danh tiếng, uy tín của nhà văn). Ngoài ra, nhà văn có thể được mời tham gia các dự án văn hóa, văn học của cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp. Thu nhập từ việc tham gia các dự án hiện nay là khá, một số ít nhà văn được trả thù lao lên đến 9 con số với dự án lớn nhờ lòng hảo tâm của doanh nghiệp. Được vậy coi như "trúng số", nhà văn có một khoản đủ chi tiêu dè sẻn cho gia đình cả năm, nhưng cả năm đó, hầu như nhà văn cũng không còn thời gian để sáng tác.

Cuộc sống khó khăn, các nguồn thu nhập về căn bản là thấp và không ổn định, thế nên dễ hiểu là nhà văn ngoài viết lách như trên, còn làm nghề phụ, nghề tay trái (nhưng lại là thu nhập chính). Một bộ phận không nhỏ nhà văn hiện nay làm nghề tự do, có gì làm nấy, miễn sao chính đáng nuôi sống bản thân, gia đình và có điều kiện để viết lách. Sáng tác văn học đương nhiên trở thành tay trái. Đó là câu chuyện chung không chỉ của nhà văn ở Việt Nam. Nhưng, như Nguyễn Du đã nói: Đã mang lấy nghiệp vào thân, nhà văn cũng phải chấp nhận hoàn cảnh đầy chắp vá, co kéo ấy để đi với văn chương một cách trọn vẹn. Ở đây, có lẽ tâm hồn và phẩm tính nghệ sĩ chính là lý do để giải thích cho những dấn thân của nhà văn. Thi sĩ Áo vĩ đại Rainer Maria Rilke từng nói: “Tôi không biết khuyên anh điều gì ngoài điều này: Đi sâu vào trong lòng mình và thăm dò những chiều sâu nơi đời sống của mình bắt nguồn, tại cội gốc đó anh sẽ tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi anh có buộc phải sáng tạo hay không. Hãy đón nhận những thanh âm của nó, không dò hỏi thêm. Có lẽ từ đó anh được gọi là một nghệ sĩ. Nếu thế thì hãy mang lấy số phận này, gánh lấy sức nặng và sự vĩ đại của nó mà không đòi hỏi một phần thưởng nào có thể đến từ bên ngoài" (Thư gửi người thi sĩ trẻ tuổi).

Những khó khăn, eo hẹp của cuộc sống vật chất, có lẽ là phổ biến, nhưng không phải không có những nhà văn bằng tài năng của mình đã có thu nhập ổn định, thậm chí thu nhập cao, trở thành những tên tuổi đáng ngưỡng mộ cả về văn chương lẫn cuộc sống. Ở Việt Nam, những người như Nguyễn Nhật Ánh (chỉ riêng cuốn Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, tái bản lần thứ 66, riêng năm 2018 đã đem về cho nhà văn hơn 4 tỷ đồng), Dương Thụy (cuốn Oxford thương yêu, tái bản 115.000 bản, năm 2018), Nguyễn Ngọc Tư (tác phẩm Cánh đồng bất tận tái bản 40 lần, đạt con số 158.247 bản), dù ít ỏi nhưng cũng cho thấy bằng văn chương, người ta vẫn có thể có thu nhập và sống tốt bằng nghề. Vấn đề ở đây là nhà văn phải thực sự có tài và có được sự yêu quý của độc giả.

Văn chương nghệ thuật vốn vô vị lợi, bởi thế, những tìm hiểu về thu nhập của nhà văn có lẽ xuất phát từ những ưu tư về hoàn cảnh sống cụ thể của họ, trong một nỗi băn khoăn thường trực: Nhà văn sống thế nào để có thể sáng tác? Trước những gì có thể thấu hiểu được từ khó khăn, thiếu thốn ấy, chúng ta mới thấy càng trân trọng những chắt chiu lặng lẽ từ đam mê và dấn thân của nhà văn.

Nhìn về những khó khăn, chúng ta nhận ra và trân quý những điều kiện khả dĩ cho phép nhà văn có thể sống và viết. Điều kiện đó chính là sự quan tâm của các cơ quan chủ quản đối với nhà văn. Ở đây, trong bài viết này, chúng tôi muốn nói đến các nhà văn quân đội. Theo đó, chính sách tiền lương của lực lượng vũ trang nói chung và các nhà văn quân đội nói riêng cũng bảo đảm hơn so với mặt bằng của công chức nhà nước. Dĩ nhiên, đây là do đặc thù nghề nghiệp, nhiệm vụ (tất cả các quốc gia trên thế giới đều xem binh nghiệp là ngành lao động đặc biệt). Mặt khác, chế độ đãi ngộ đối với văn nghệ sĩ trong quân đội cũng được chú ý. Cụ thể, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã dành cho các nhà văn quân đội một quy chế hoạt động phù hợp, nhằm khích lệ năng lực sáng tạo. Chế độ thu hút nhân tài cũng được quan tâm, cụ thể bằng việc tuyển dụng các văn nghệ sĩ có tài vào lực lượng vũ trang. Cùng với đó, các dự án đầu tư của Bộ Quốc phòng cho các hoạt động sáng tác, giải thưởng Bộ Quốc phòng đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật, các trại sáng tác, các cuộc thi, được tổ chức thường xuyên đã đem lại nguồn sinh lực cho giới văn nghệ sĩ quân đội nói riêng, qua đó thu hút sự quan tâm và tham gia của giới văn nghệ sĩ cả nước. Từ sự quan tâm, tạo điều kiện đó, các nhà văn quân đội đã trở thành lực lượng nòng cốt, là một bộ phận quan trọng làm nên diện mạo văn chương Việt Nam.

TS Nguyễn Thanh Tâm